Bản án 15/2020/HS-ST ngày 16/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG HỒ, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 15/2020/HS-ST NGÀY 16/04/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 4 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Hồ xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 10/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 3 năm 2020 và thông báo dời ngày xét xử số 49/TB.TAH ngày 01 tháng 4 năm 2020 đối với:

Bị cáo Trần Huỳnh Phúc H, sinh năm 1985. Tại Vĩnh Long Nơi cư trú: ấp Thông Quan, xã Phú Đức, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long. Nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá 12/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: nam; con ông Trần Duy H và bà Huỳnh Thị Ú; Vợ Thái Nguyệt H ; Con: có 02 người, lớn nhất sinh năm 2009, nhỏ nhất sinh năm 2010; Tiền án: không.

Tiền sự: Ngày 14/11/2019 bị công an huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long xử phạt 1.000.000đồng về hành vi tàng trữ sử dụng cấp hiệu, phù hiệu, số hiệu dành riêng cho lực lượng công an nhân dân; Nhân thân: chưa bị kết án.

Bị cáo tại ngoại có mặt tại tòa.

Bị hại: Công an xã Phú Đức, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.

Do ông Phan Anh K; Chức vụ Trưởng công an xã làm đại diện.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Anh Nguyễn Văn Th, sinh năm 1983 (vắng mặt)

Địa chỉ: ấp 8, xã Mỹ L , huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long.

Người làm chứng: anh Võ Huy K , sinh năm 1982

Địa chỉ: ấp An Thuận, xã Phú Đức, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 02/12/2016, Công an xã Phú Đức phối hợp Công an huyện Long Hồ tuần tra lập biên bản vi phạm hành chính đối với anh Nguyễn Văn Thương, điều khiển xe mô tô nhãn hiệu SIRIUS không biển kiểm soát (xe mua chưa đăng ký), không giấy phép lái xe. Cùng ngày, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Phú Đức quyết định tạm giữ xe mô tô có số khung RLCS5C640CY880034, số máy 5C64-880035 của anh Nguyễn Văn Thương trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày 02/12/2016.

Sau khi hết thời hạn tạm giữ xe nhưng anh Th vẫn không xuất trình được giấy chứng nhận nguồn gốc xe nên Công an xã Phú Đức vẫn tiếp tục giữ xe của anh Th . Thời điểm này Công an xã Phú Đức mượn nhà anh Võ Huy K đối diện trụ sở Công an xã làm nhà kho để giữ xe vi phạm hành chính. Chìa khóa nhà kho do anh K và anh Phan Trí Th (phó Công an xã Phú Đức) quản lý.

Vào ngày 17/11/2017, Trần Huỳnh Phúc H là Phó Công an xã Phú Đức phụ trách lĩnh vực trật tự xã hội (không được giao nhiệm vụ quản lý kho) không có xe nên nảy sinh ý định vào nhà kho giữ xe vi phạm hành chính của Công an xã Phú Đức lấy 01 xe mô tô làm phương tiện đi lại. H đến gặp anh Khanh hỏi mượn chìa khóa nhà kho giữ xe vi phạm. Anh Kh biết H là Phó Công an xã nên đã giao chìa khóa nhà kho cho H.

Khoảng 21 giờ ngày 18/11/2017, H một mình trực chiến tại Công an xã, lén lút dùng chìa khóa của anh Kh mở cửa vào nhà kho. Trong nhà kho lúc này có 17 xe mô tô đang bị tạm giữ tại đây, H đến lấy trộm chiếc xe SIRIUS của anh Th đang bị tạm giữ tại Công an xã làm phương tiện đi lại đến ngày 22/11/2017 thì H bán xe cho người nam thanh niên không rõ họ tên đại chỉ cụ thể tại quán cà phê HAPPY NIGHT thuộc ấp Phước Yên A, xã Phú Quới, huyện Long Hồ với số tiền 5.000.000đ.

Kết luận định giá tài sản số 40/HĐ ngày 31/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Long Hồ kết luận xe SIRIUS có số khung RLCS5C640CY880034, số máy 5C64-880035 của anh Nguyễn Văn Thương trị giá 9.425.000đ (chín triệu, bốn trăm hai mươi lăm ngàn đồng).

Tại bản Cáo trạng số:15/CT-VKS,ngày 24 tháng 02 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Hồ truy tố bị cáo Trần Huỳnh Phúc H về tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Ý kiến bị cáo tại tòa: Bị cáo có ý định lấy xe của Th để xài sau đó sẽ bán. Mẹ bị cáo có cho bị cáo 15.000.000đồng để bồi thường cho Th như bị cáo đã đã cho Yến là bạn gái của bị cáo. Bị cáo bị khai trừ Đảng là do bị cáo cầm thẻ Đảng viên để vay tiền, bị cáo bị xử phạt hành chính là do bị cáo tàng trữ quần áo ngành công an.

Người bị hại trình bày: Sau khi sự việc xảy ra cơ quan có yêu cầu bị cáo bồi thường nhưng bị cáo không thực hiện. Dư luận ở địa phương rất xấu về vấn đề này. Tôi yêu cầu phải xử lý bị cáo nghiêm minh. Về vấn đề bồi thường chiếc xe tôi không có ý kiến vì bị cáo đã thỏa thuận bồi thường với anh Th.

Ý kiến người làm chứng: Tôi nghĩ bị cáo là phó công an xã nên đưa chìa khóa, tôi không biết bị cáo lấy xe tang vật.

Ý kiến kiểm sát viên tại tòa: Bảo lưu quan điểm bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Hồ, nhưng đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng quy định Bộ luật hình sự năm 1999 đối với bị cáo, vì khi thực hiện hành vi phạm tội Bộ luật hình sự năm 2015 chưa có hiệu lực. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Huỳnh Phúc H phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị; áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo bồi thường cho anh Nguyễn văn Th số tiền 8.000.000đồng

Về án phí: Đề nghị án dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 buộc bị cáo nộp 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 400.0000đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Lời trình bày sau cùng của bị cáo: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Từ giai đoạn điều tra , truy tố đến xét xử tại phiên tòa, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng và đầy đủ các qui định của pháp luật tố tụng hình sư Đối với quan điểm của Kiểm sát viên tại tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng pháp luật vào thời điểm phạm tội của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 để xử lý bị cáo là phù hợp với qui định của pháp luật Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với tư cách tham gia tố tụng của công an xã Phú Đức, huyện Long Hồ Hội đồng xét xử thấy rằng: Chiếc xe bị tạm giữ hành chính là của anh Nguyễn Văn Th, nhưng vào thời điểm bị cáo chiếm đoạt chiếc xe này là do Công an xã Phú Đức quản lý, nên cần xác định Công an xã Phú Đức là bị hại trong vụ án.

Anh Nguyễn Văn Th đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, nhưng qua điện thoại anh Th liên hệ với Tòa án, anh Th đề nghị Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh. Trong quá trình Điều tra anh Th cũng đã trình bày rõ yêu cầu của mình, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về nội dung:

[2.1] Lời khai nhận của bị cáo tại tòa là phù hợp với lời khai người làm chứng, lời khai người bị hại và lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án tại phiên tòa, cũng như lời khai trong quá trình điều tra. Đủ căn cứ kết luận bị cáo Trần Huỳnh Phúc H đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” Cáo trạng số 15/CT-VKS.LH ngày 24/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Hồ truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là có căn cứ đúng người, đúng tội.

[2.2] Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền quản lý tài sản hợp pháp của người khác, gây dư luận xấu trong đời sống xã hội. Bản thân bị cáo là Công an xã với chức vụ là phó công an, nhưng bị cáo không thực hiện đúng đắn trách nhiệm của mình, không giữ vững bản chất của một cán bộ nhà nước, trước khi bị khởi tố bị cáo đã bị xử phạt hành chính về hành vi tàng trữ , sử dụng phù hiệu, số hiệu dành riêng cho lực lượng công an nhân dân và bị khai trừ ra khỏi tổ chức Đảng về hành vi dùng thẻ Đảng viên để vay tiền. Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận khi lén lút lấy xe trong kho tang vật là đã vi phạm pháp luật, khi sự việc bị phát hiện, đơn vị công tác của bị cáo yêu cầu bị cáo bồi hoàn lại chiếc xe hoặc bồi thường giá trị lại cho anh Th. Mẹ ruột bị cáo đã cho bị cáo 15.000.000đồng để bồi thường nhưng bị cáo không thực hiện mà dùng tiền để tiêu xài cá nhân cho thấy thái độ xem thường pháp luật, xem thường tài sản của người khác, là một cán bộ biến chất gây mất niềm tin của nhân dân đối với cán bộ nhà nước.

[2.3] Về tình tiết giảm nhẹ: Sau khi bị bắt bị cáo có thật thà khai báo, thành khẩn nhận tội. Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng . bị cáo đã khắc phục một phần thiệt hại về tài sản, bị cáo có cha là người có công với nước, bản thân bị cáo có thời gian cống hiến cho quân đội và lực lượng công an. Đây là những tình tiết giảm nhẹ. Hội đồng xét xử có xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[2.4] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra bị cáo và anh Nguyễn Văn Th có văn bản thỏa thuận là phía bị cáo sẽ bồi thường cho anh Th 18.000.000đồng, bị cáo đã bồi thường được 10.000.000đồng. Thỏa thuận này không vi phạm pháp luật, không làm thiệt hại quyền lợi cho các bên. Do thời điểm anh Th mua xe giá trị cao hơn. Hội đồng xét xử chấp nhận và buộc bị cáo phải thực hiện tiếp tục nghĩa vụ đối với anh Th.

[2.5] Quan điểm của kiểm sát viên tại tòa có cơ sở nên được chấp nhận.

[2.6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự, dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Huỳnh Phúc H phạm tội “Trộm cắp tài sản”

Căn cứ khoản 1 Điều 138, điểm b, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Xử phạt bị cáo Trần Huỳnh Phúc H 01(một) năm tù. Thời hạn tù tính từ bắt bị cáo chấp hành hình phạt.

2.Về trách nhiệm dân sự: áp dụng Điều 584. 589 Bộ luật dân sự buộc bị cáo Trần Huỳnh Phúc H bồi thường cho anh Nguyễn Văn Th 8.000.000đồng.

3.Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23, 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Trần Huỳnh Phúc H nộp 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 400.000đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa thi hành số tiền nêu trên thì phải chịu lãi suất theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm, bị cáo, bị hại có mặt tại tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 tính từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 15/2020/HS-ST ngày 16/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:15/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Hồ - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;