Bản án 15/2020/HS-ST ngày 15/06/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M’ĐRẮK, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 15/2020/HS-ST NGÀY 15/06/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 15 tháng 6 năm 2020 tại hội trường Tòa án nhân dân huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn công khai vụ án hình sự thụ lý số 19/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2020/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 6 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Y H MLô sinh ngày 14/4/1993, tại: xã E, huyện M, tỉnh Đ. Nơi cư trú: buôn M, xã E, huyện M, tỉnh Đ. Dân tộc: Ê Đê. Trình độ học vấn: 9/12. Nghề nghiệp: làm nông. Tôn giáo: không. Tiền án, tiền sự: không. Con ông Y D Mlô và bà Dương Thị T1. Vợ: H’Y Niê và có 01 con sinh năm 2016. Bị cáo hiện đang tại ngoại, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Triệu Tiến Q sinh ngày 02/6/1990 tại: huyện C, tỉnh L. Nơi cư trú: thôn E, xã C, huyện M, tỉnh Đ. Dân tộc: Dao. Trình độ học vấn: 9/12. Nghề nghiệp: làm nông. Tôn giáo: không. Tiền án, tiền sự: không. Con ông Triệu S Và - đã chết, con bà Dương Thị V. Vợ: Dương Thị P và có 02 con (con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2016). Bị cáo hiện đang tại ngoại, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. Nguyễn Tấn B sinh ngày 16/8/1992 tại: thị xã N, tỉnh K. Nơi cư trú: buôn M, xã E, huyện M, tỉnh Đ. Dân tộc: Kinh. Trình độ học vấn: 9/12. Nghề nghiệp: làm nông. Tôn giáo: không. Tiền án, tiền sự: không. Con ông Nguyễn Tấn D và bà Đỗ Thị L, đều đã chết. Vợ: H’S Hwing và có 02 (con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2020). Bị cáo hiện đang tại ngoại, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

4. Y T HWing sinh ngày 09/02/1998 tại: huyện M, tỉnh Đ. Nơi cư trú: buôn M, xã E, huyện M, tỉnh Đ. Dân tộc: Ê Đê. Trình độ học vấn: 11/12. Nghề nghiệp: làm nông. Tôn giáo: không. Tiền án, tiền sự: không. Con ông: Y ML Ksơr và bà H’ B Hwing. Vợ: H’ N Niê. Bị cáo hiện đang tại ngoại, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Những người tham gia tố tụng khác:

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Tấn B: bà Nguyễn Thị Xuyến - Trợ giúp viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đăk Lăk. Bà Xuyến có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Triệu Tiến Q: bà Nguyễn Thị Bích Na - Trợ giúp viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đăk Lăk. Bà Na có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Y P HĐơk sinh năm 1990. Nơi cư trú: buôn M, xã E, huyện M, tỉnh Đ. Ông Y P có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ ngày 01/5/2020, Y H MLô, Y P H’Đơk và Triệu Tiến Q uống rượu tại nhà bỏ hoang của Y P tại buôn M, xã E, huyện M, tỉnh Đ. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, Y P về nhà bố mẹ của mình, Y H và Q tiếp tục uống rượu. Khoảng 21 giờ cùng ngày, Nguyễn Tấn B đến tham gia uống rượu cùng Y H và Q. Thấy trong góc nhà có 03 bộ bài tú lơ khơ,Y H, Q và B rủ nhau đánh bài “Liêng” thắng, thua bằng tiền. Cách thức như sau: Trước mỗi ván chơi, mỗi người đặt cược 20.000đồng, thay nhau làm “cái”, sử dụng một bộ bài tú lơ khơ, chia cho mỗi người 03 lá bài, để tính điểm. Người nào có tổng số điểm cao nhất sẽ thắng hết số tiền của người chơi đã đặt cược từ đầu. Ngoài số tiền người chơi đặt cược 20.000đồng, người nào có nhu cầu “tố” bài thì đặt thêm tiền cược, nhưng không được vượt quá 200.000đồng cho một lần tố/ván/người. Người chơi theo cược tố, thì người có số điểm cao nhất sẽ thắng hết số tiền của những người tham gia chơi.

Các đối tượng sử dụng tiền đánh bạc như sau: Q sử dụng khoảng 3.500.000đồng, B sử dụng 3.600.000đồng, Y H sử dụng 1.300.000đồng. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, Y T HWing đến, thấy Y H, Q và B đang đánh bạc thì Y T cùng tham gia. Y T sử dụng số tiền khoảng 1.800.000đồng để đánh bạc. Quá trình đánh bạc, Y H bị thua, Y H mượn của B 2.000.000đồng để tiếp tục đánh bạc. Đến 23 giờ 55 phút cùng ngày, các đối tượng bị lực lượng Công an bắt quả tang, thu giữ:

trên chiếu bạc 5.350.000đồng; Trên người B 1.000.000đồng, YThuôn 2.000.000đồng, Triệu Tiến Q 4.000.000 đồng, Y H 2.000.000 đồng; 03 bộ bài tú lơ khơ đã cũ.

Quá trình điều tra, xác định Y T và Y H không sử dụng số tiền cất giữ trong người để đánh bạc. Như vậy, tổng số tiền mà bốn đối tượng nêu trên sử dụng để đánh bạc với nhau là 10.350.000đồng. * Tại quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 20/QĐ-VKS ngày 29 tháng 5 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M’Đrăk truy tố các bị cáo Y H MLô, Triệu Tiến Q, Nguyễn Tấn B, Y T HWing về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS.

* Quá trình xét hỏi tại phiên toà:

- Các bị cáo khai:

Khong 19 giờ ngày 01/5/2020, bị cáo Y H và bị cáo Q uống rượu cùng với Y P tại nhà Y P, sau đó Y P về nhà bố mẹ Y P. Khoảng 21 giờ cùng ngày, bị cáo B đến tham gia uống rượu cùng với bị cáo H và bị cáo Q. Thấy trong góc nhà có 03 bộ bài tú lơ khơ, nên các bị cáo rủ nhau đánh bài “Liêng” được thua bằng tiền. Khi tham gia đánh bài liêng: bị cáo Q sử dụng khoảng 3.500.000đồng; Bị cáo B sử dụng 3.600.000đồng; Bị cáo Y H trên người có 3.300.000đồng, nhưng chỉ lấy ra sử dụng 1.300.000đồng để đánh bài.

Khong 22 giờ cùng ngày, bị cáo Y T đến để uống rượu với các bị cáo, thấy các bị cáo đang đánh bài liêng, bị cáo Y T cùng tham gia. Khi tham gia đánh bài, trên người bị cáo Y T có khoảng 3.800.000đồng, nhưng bị cáo Y T chỉ lấy ra sử dụng khoảng 1.800.000đồng để chơi liêng. Quá trình chơi liêng, bị cáo Y H bị thua hết số tiền 1.300.000đồng, bị cáo Y H vay bị cáo B 2.000.000đồng để tiếp tục chơi liêng.

Khong 23 giờ 55 phút cùng ngày, các bị cáo đang chơi liêng thì bị lực lượng Công an bắt quả tang, thu giữ: trên chiếu bạc 5.350.000đồng và 03 bộ bài tú lơ khơ; Trên người bị cáo B 1.000.000đồng và bị cáo Q 4.000.000đồng dùng để đánh liêng; trên người bị cáo Y H 2.000.000đồng và bị cáo YThuôn 2.000.000đồng, số tiền trên người bị cáo Y H và bị cáo Y T để riêng để dùng chi tiêu cho gia đình, không sử dụng để đánh liêng.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Y P HĐơk khai: do vợ chồng Y P mâu thuẫn không ở với nhau, ông Y P không ở nhà mình mà đến ở nhà bố mẹ Y P. Tối ngày 01/5/2020, Y P uống rượu cùng với Y H và Q tại nhà Y P, sau đó Y P về nhà bố mẹ Y P để ngủ. Y P không biết việc các bị cáo đánh bài tại nhà mình.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M’Đrăk giữ quyền công tố tại phiên toà giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Tòa án:

- Tuyên bố các bị cáo Y H MLô, Triệu Tiến Q, Nguyễn Tấn B và Y T HWing phạm tội “Đánh bạc”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và khoản 1, khoản 2 Điều 65 BLHS: Xử phạt các bị cáo Y H MLô, Triệu Tiến Q và Nguyễn Tấn B, mỗi bị cáo từ 08 tháng đến 10 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo; Xử phạt bị cáo Y T HWing từ 06 tháng đến 08 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. - Áp dụng Điều 47 BLHS; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS): Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 10.350.000 đồng; Tịch thu tiêu hủy 03 bộ bài tú lơ khơ; Trả lại cho bị cáo Y H MLô và bị cáo Y T HWing, mỗi bị cáo 2.000.000đồng.

* Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Tấn B và Triệu Tiến Q nhất trí với lời luận tội của Kiểm sát viên về tội danh. Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các bị cáo bột phát phạm tội, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội. Các bị cáo là người đều sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Bị cáo B có thời gian phục vụ trong Quân đội nhân dân Việt Nam, có 02 con nhỏ, là lao động chính trong gia đình. Do vậy, ngoài các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo đề nghị của Kiểm sát viên, người bào chữa cho các bị cáo đề nghị HĐXX áp dụng khoản 3 Điều 54 và Điều 36 BLHS để phạt cải tạo không giam giữ đối với các bị cáo.

* Các bị cáo không có ý kiến tranh luận. Các bị cáo chỉ đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện M’Đrắk, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M’Đrắk, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Các bị cáo và đương sự trong vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở pháp lý để kết luận: khoảng 21 giờ ngày 01/5/2020, trong lúc uống rượu tại nhà ông Y P ở buôn M, xã E, huyện M, tỉnh Đ, các bị cáo Y H, Quang, B và Y T rủ nhau đánh bài liêng được thua bằng tiền, là trái pháp luật. Tổng số tiền mà lực lượng Công an thu giữ vào lúc 23 giờ 55 phút cùng ngày là 10.350.000đồng, trong đó: thu giữ trên chiếu bạc 5.350.000đồng; thu giữ trên người bị cáo B 1.000.000đồng và bị cáo Q 4.000.000đồng. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS. Xét thấy, hành vi phạm tội của các bị cáo bị bắt quả tang, sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng, tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng, các bị cáo có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng. Nên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M’Đrắk truy tố các bị cáo theo thủ tục rút gọn về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự là có cơ sở. Tại Khoản 1 Điều 321 BLHS quy định: “Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000đồng đến 100.000.000đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

[3] Xét tính chất vụ án, mức độ cũng như hậu quả do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đánh bạc trái phép, xâm phạm đến sự quản lý của Nhà nước về trật tự công cộng, ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội, nên cần phải xử lý theo pháp luật mới có tác dụng giáo dục các bị cáo, đồng thời có tính răn đe, phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

Vụ án mang tính đồng phạm giản đơn, tự phát phạm tội. HĐXX, xem xét tính chất, mức độ cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của mỗi bị cáo để lượng hình cho tương xứng với hành vi và hậu quả của từng bị cáo đã gây ra.

Các bị cáo Y H, Q và B dùng số tiền tương đương nhau (chênh lệch không đáng kể) và tham gia đánh bạc từ đầu, khi bị cáo Y H thua hết tiền, bị cáo B đã cho bị cáo Y H vay tiền để đánh bạc tiếp. Nên áp dụng hình phạt đối với bị cáo B cao hơn các bị cáo khác; hình phạt đối với bị cáo Y H và bị cáo Q là bằng nhau; Bị cáo Y T tham gia đánh bạc sau cùng và dùng số tiền ít nhất để đánh bạc, nên hình phạt áp dụng đối với bị cáo Y T nhẹ nhất là phù hợp.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; Các bị cáo là người phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Các bị cáo Y H, Q và Y T là người dân tộc thiểu số, bị cáo B có thời gian phục vụ trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.

HĐXX xét thấy, các bị cáo có nhân thân tốt, có nơi thường trú cụ thể, rõ ràng. Nên không cần thiết phải bắt các bị cáo phải chấp hành hình phạt tù, mà áp dụng khoản 1 và khoản 2 Điều 65BLHS, cho các bị cáo được hưởng án treo, ấn định một thời gian thử thách, cũng đủ tác dụng giáo dục các bị cáo. Các bị cáo đều sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Đi với ông Y P H’Đơk là chủ sở hữu hợp pháp của căn nhà nơi các bị cáo sử dụng để đánh bạc. Tuy nhiên, ông Y P hoàn toàn không biết việc các bị cáo đánh bạc tại nhà của mình, nên không xử lý.

[4] Về xử lý vật chứng: Số tiền thu giữ trên chiếu bạc 5.350.000đồng và trên người bị cáo B 1.000.000đồng, bị cáo Q 4.000.000đồng, tổng cộng là 10.350.000 đồng. Đây là số tiền các bị cáo đã sử dụng vào việc phạm tội, nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước; Đối với 03 bộ bài tú lơ khơ là công cụ các bị cáo dùng vào việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng, nên cần tịch thu tiêu hủy; Đối với với số tiền mà cơ quan Công an thu giữ trên người bị cáo Y T và bị cáo Y H, các bị cáo khai không dùng vào việc phạm tội là có căn cứ, nên cần trả lại bị cáo Y T và bị cáo Y H, mỗi bị cáo 2.000.000 đồng.

[5] Về án phí: các bị cáo bị kết án, các bị cáo phải chịu tiền án phí Hình sự sơ thẩm. Tuy nhiên, các bị cáo Y H MLô, Triệu Tiến Q, và Y T HWing là người dân tộc thiểu số sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, bị cáo Nguyễn Tấn B thuộc diện nghèo, các bị cáo có đơn đề nghị miễn án phí, nên các bị cáo được miễn toàn bộ tiền án phí HSST.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Y H MLô, Triệu Tiến Q, Nguyễn Tấn B, Y T HWing phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và khoản 1, khoản 2 Điều 65 BLHS:

-Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn B 08 (Tám) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (Một) năm 04 (Bốn) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 15/6/2020.

-Xử phạt bị cáo Y H MLô 07 (Bảy) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (Một) năm 02 (Hai) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 15/6/2020.

-Xử phạt bị cáo Triệu Tiến Q 07 (Bảy) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (Một) năm 02 (Hai) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 15/6/2020.

- Xử phạt bị cáo Y T HWing 06 (Sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (Một) năm, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 15/6/2020.

Giao bị cáo Triệu Tiến Q cho Ủy ban nhân dân xã Cư San, giao các bị cáo Y H MLô, Nguyễn Tấn B và Y T HWing cho Ủy ban nhân dân EaTrang, huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk giám sát và giáo dục các bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì cơ quan Thi hành án hình sự Công an cấp huyện giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.

2. Áp dụng khoản 2 Điều 106 BLTTHS và Điều 47 BLHS:

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 10.350.000 đồng;

- Tịch thu tiêu hủy 03 bộ bài tú lơ khơ;

- Trả lại cho bị cáo Y H Mlô và bị cáo Y T HWing, mỗi bị cáo 2.000.000đồng. Số lượng, đặc điểm vật chứng như biên bản bàn giao vật chứng giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M’Đrắk và Chi cục Thi hành án dân sự huyện M’Đrắk ngày 15/6/2020.

3. Về án phí: Áp dụng điểm đ Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Các bị cáo Y H MLô, Triệu Tiến Q, Nguyễn Tấn B và Y T HWing được miễn toàn bộ tiền án phí HSST.

4. Báo quyền kháng cáo Báo cho các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án Hình sự sơ thẩm trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

290
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 15/2020/HS-ST ngày 15/06/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:15/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện M'Đrắk - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;