Bản án 15/2020/HS-ST ngày 13/01/2020 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 15/2020/HS-ST NGÀY 13/01/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Hôm nay, ngày 25/12/2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vinh - tỉnh Nghệ An mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 578/2019/HSST ngày 29/11/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 682/QĐXXST-HS ngày 9/12/2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lại Thị Ngọc N; Tên gọi khác: Không Sinh ngày: 12/5/1980; tại huyện C, tỉnh N.

Nơi ĐKHKTT: Khối 19, phường B, Thành Phố V, tỉnh A. Chỗ ở hiện nay: Khối TH, phường H, thành phố V, tỉnh A Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Đoàn thể, Đảng phái: Không Con ông: Lại Minh L, sinh năm 1953; Con bà: Nguyễn Thị T, sinh năm 1955;

Anh, chị, em ruột: Có 04 người, bị cáo là con thứ hai; Chồng: Nguyễn Đăng V, sinh năm 1972;

Con: Có 01 con, sinh năm 2001. Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: - Ngày 16/12/2013, Tòa án nhân dân thành phố Vinh xử phạt tiền 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng) về tội “Đánh bạc”. (Chấp hành xong Bản án ngày 17/6/2014). Ngày 26/01/2015, Tòa án nhân dân thành phố Vinh xử phạt 03 tháng tù giam về tội “Đánh bạc” (chấp hành án xong Bản án ngày 17/3/2015) Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/9/2019 đến ngày 16/9/2019 được tại ngoại.

Áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú và tạm hoãn xuất cảnh (có mặt)

2. Họ và tên: Nguyễn Duy H; Giới tính: N; Tên gọi khác: Không Sinh ngày: 23/12/1963 tại thành phố V, tỉnh N.

Nơi ĐKHKTT: Khối H, phường P, thành phố V, tỉnh N. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/10;

Đoàn thể, Đảng phái: Không Con ông: Nguyễn Duy B, (đã chết); Con bà: Nguyễn Thị L (đã chết); Anh, chị, em ruột: Có 04 người, bị cáo là con thứ hai.

Vợ: Nguyễn Thị M, sinh năm 1966;

Con: Có 03 con; Lớn nhất sinh năm 1987, nhỏ nhất sinh năm 1991. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo là thương binh 4/4 Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/9/2019 đến ngày 16/9/2019 được tại ngoại.

Áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú và tạm hoãn xuất cảnh (có mặt)

3. Họ và tên: Phùng Văn T; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 20/7/1974 tại huyện H, tỉnh N.

Nơi ĐKHKTT: Khối 15, phường T, thành phố V, tỉnh N.

Quốc tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Đoàn thể Đảng phái: Không Con ông: Phùng Khánh X, sinh năm 1926.

Con bà: Thái Thị Đ, sinh năm 1937 Anh chị em ruột: 07 người, bị cáo là con thứ 7.

Vợ: Hoàng Thị Ngọc H, sinh năm 1991;

Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2011; Con nhỏ sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: năm 1993 bị khởi tố về tội “Trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa” hiện đang thu thập tài liệu phục hồi điều tra.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/9/2019 đến ngày 16/9/2019 được tại ngoại.

Áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú và tạm hoãn xuất cảnh (có mặt)

4. Họ và tên: Phạm Thị H; Tên gọi khác: Không;

Sinh ngày: 02/5/1985 tại huyện N, tỉnh A. Nơi ĐKHKTT: Khối V, phường H, thành phố Q, tỉnh H. Chỗ ở hiện nay: Khối 7, phường B, thành phố Q, tỉnh H. Quốc tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Đoàn thể Đảng phái: Không Con ông: Phạm Hữu T, sinh năm 1956; Con bà: Hồ Thị H, sinh năm 1956;

Anh, chị, em ruột: Có 02 người, bị cáo là con thứ nhất; Chồng: Nguyễn Thành T, sinh năm 1979 (đã ly hôn);

Con: có 02 con, con lớn sinh năm 2009, con: Nhỏ sinh năm 2012. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/9/2019 đến ngày 16/9/2019, Áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú và tạm hoãn xuất cảnh (có mặt)

5. Họ và tên: Lưu Văn H; Tên gọi khác: Không Sinh ngày: 24/12/1988 tại thành phố H, tỉnh Q Nơi ĐKHKTT: Khối 1, phường T, thành phố H, tỉnh Q. Quốc tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Đoàn thể, Đảng phái: Không Con ông: Lưu Văn L, (đã chết); Con bà: Nguyễn Thị L, sinh năm 1961; Anh, chị, em ruột: Có 02 người, bị cáo là con thứ 2. Vợ: Dương Thị Hà T, sinh năm 1995; Con: 01 con, sinh năm 2019;

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/9/2019 đến ngày 16/9/2019 được tại ngoại.

Áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú và tạm hoãn xuất cảnh (có mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 10/9/2019, Nguyễn Duy H đang ở nhà của mình tại số 26, đường Lê Hoàn thuộc Khối H, phường P, thành phố V, tỉnh N. thì có Lưu Văn H, Phùng Văn T và Lại Thị Ngọc N đến chơi. Sau khi ngồi chơi uống nước một lúc thì H, T, N và H rủ nhau đánh bạc bằng hình thức đánh bài “Xiểng” (Tiến lên miền N) được thua bằng tiền mỗi ván từ 50.000 đồng (Năm mươi nghìn đồng) đến 250.000 đồng (Hai trăm năm mươi nghìn đồng), mỗi ván đút “3 bích”người chơi trích lại cho chủ nhà số tiền 50.000 đồng (Năm mươi nghìn đồng). Thống nhất xong, Nguyễn Duy H lấy ra 02 (hai) bộ bài tú lơ khơ mỗi bộ 52 quân bài để đánh bạc. Khi Nguyễn Duy H, Phùng Văn T, Lại Thị Ngọc N và Lưu Văn H ngồi đánh bạc được khoảng 20 phút thì có PhạmThị H đến chơi, lúc này Lưu Văn H nghỉ đánh bạc nên Phạm Thị H vào thế chỗ H rồi cùng tham gia đánh bạc. Đến 15 giờ ngày 10/9/2019, khi Nguyễn Duy H, Phùng Văn T, Lại Thị Ngọc N và Phạm Thị H đang đánh bạc thì bị lực lượng Công an thành phố Vinh kiểm tra, phát hiện bắt quả tang, thu giữ tại chiếu bạc 02 (hai) bộ bài tú lơ khơ mỗi bộ 52 quân bài và số tiền 100.000 đồng (Một trăm nghìn đồng) gọi là (Tiền hồ). Kiểm tra thu giữ trong túi áo Nguyễn Duy H số tiền 550.000 đồng (Năm trăm năm mươi nghìn đồng); thu giữ trong túi quần Lại Thị Ngọc N số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) và trong túi xách số tiền 17.550.000 đồng (Mười bảy triệu, năm trăm năm mươi nghìn đồng); thu giữ trong túi xách của Phạm Thị H số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng); thu giữ trong ví của Phùng Văn T số tiền 4.440.000 đồng (Bốn triệu, bốn trăm bốn mươi nghìn đồng); thu giữ trong ví của Lưu Văn H số tiền 1.800.000 đồng (Một triệu tám trăm nghìn đồng). Tổng cộng 29.640.000 đồng Đối với số tiền 17.000.000 đồng (Mười bảy triệu đồng) thu giữ trong túi xách của Lại Thị Ngọc N, quá trình điều tra xác định N không sử dụng số tiền này để đánh bạc, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại cho Lại Thị Ngọc N.

Số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc được xác định như sau: Nguyễn Duy H 550.000 đồng (Năm trăm năm mươi nghìn đồng); Lại Thị Ngọc N 750.000 đồng (Bảy trăm năm mươi ngán đồng); Phùng Văn T 4.440.000 đồng (Bốn triệu bốn trăm bốn mươi nghìn đồng); Phạm Thị H 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng); Lưu Văn H 1.800.000 đồng (Một triệu tám trăm nghìn đồng); tiền hồ 100.000 đồng.

Cáo trạng số ngày 592/2019/VKS-HS ngày 25/11/2019 của VKSND Thành phố Vinh truy tố các bị cáo Nguyễn Duy H, Lại Thị Ngọc N, Phùng Văn T, Phạm Thị H và Lưu Văn H về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa KSV giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51, điều 35 Bộ luật hình sự, xử phạt: Lại Thị Ngọc N từ 12 - 15 tháng cải tạo không giam giữ, miễn khấu trừ thu nhập.

Áp dụng khoản 1điều 321, điểm i,s,x khoản 1, khoản 2 Điều 51, điều 35 BLHS, xử phạt: Nguyễn Duy H từ 20.000.000đ - 23.000.000đ Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điều 35 Bộ luật hình sự, xử phạt: Phùng Văn T từ 23.000.000đ - 25.000.000đ.

Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 điều 51, điều 35 BLHS, xử phạt: Phạm Thị H từ 30.000.000đ - 35.000.000đ Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS, xử phạt: Lưu Văn H từ 23.000.000đ - 25.000.000đ.

Về tang vật: Tịch thu tiêu hủy 02 bộ bài tú lơ khơ 52 quân đang được bảo quản tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vinh.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 12.640.000 đồng thu giữ của các bị cáo đã được nộp vào tài khoản tạm giữ tại Kho bạc nhà nước tỉnh Nghệ An.

Buộc các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Vinh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản cáo trạng đã truy tố. Xét lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 15 giờ ngày 10/9/2019; tại nhà ở Nguyễn Duy H số 26, đường Lê Hoàn thuộc Khối H, phường P, thành phố V, tỉnh N, Nguyễn Duy H, Lưu Văn H, Phùng Văn T, Lại Thị Ngọc N và Phạm Thị H đang có hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh bài “Xiểng” được thua bằng tiền mỗi ván từ 50.000 đồng (Năm mươi nghìn đồng) đến 250.000 đồng (Hai trăm năm mươi nghìn đồng) thì bị lực lượng Công an thành phố Vinh phát hiện bắt quả tang. Tổng số tiền các bị can sử dụng đánh bạc là: 12.640.000 đồng. Như vậy, hành vi nêu trên của các bị cáo Nguyễn Duy H, Lại Thị Ngọc N, Phùng Văn T, Phạm Thị H và Lưu Văn H đã phạm vào tội “ Đánh bạc” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 321 Bộ luật hình sự.

[3]. Xét tính chất vụ án: Vụ án thuộc loại ít nghiêm trọng có đồng phạm nhưng thuộc loại giản đơn. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, những vi đó không những xâm phạm trực tiếp đến trật tự công cộng, gây sự hoang mang, bất bình trong đời sống xã hội của nhân dân tại địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện điều đó đã làm ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương và thể hiện tính xem thường pháp luật của các bị cáo. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nên phải gánh chịu trách nhiệm hình sự đối với hậu quả do hành vi của các bị cáo đã trực tiếp gây ra.

[4]. Xét về vai trß, nhân thân cũng như các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ như sau: về vai trò của các bị cáo trong vụ án là ngang nhau. Xét về nhân thân thì Lại Thị Ngọc N đã có 02 nhân thân về tội “Đánh bạc” nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học răn mình nhưng lại tiếp tục phạm tội chứng tỏ ý thức pháp luật kém nên đối với bị cáo phải lên mức án nghiêm khắc hơn các bị cáo khác trong vụ án. Về tình tiết giảm nhẹ: bị cáo khai báo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 BLHS.

* Đối với Phạm Thị H tham gia đánh bạc với số tiền 5.000.000đồng, Phùng Văn T tham gia đánh bạc với số tiền 4.440.000 đồng , Lưu Văn Hiếu tham gia đánh bạc với số tiền 1.800.000 đồng, Nguyễn Duy H tham gia đánh bạc với số tiền 550.000đ và thu 100.000 đồng tiền hồ.

Về tình tiết giảm nhẹ: các bị cáo Phạm Thị H, Phùng Văn T, Nguyễn Văn H quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa khai báo thành khẩn, lần đầu phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Các tình tiết đó được quy định tại điểm i,s khoản 1 điều 51 BLHS. Phùng Văn T có bố là ông Phùng Khánh X là người có công với cách mạng được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhất, Lưu Văn H có bố là thương binh hạng 4/4 các tình tiết này được quy định tại khoản 2 điều 51 BLHS. Về tình tiết tăng nặng: không.

Đối với bị cáo Nguyễn Duy H quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa khai báo thành khẩn, lần đầu phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bản thân bị cáo đã có quá trình tham gia cách mạng, là thương binh 4/4, gia đình bị cáo có mẹ là người có công với cách mạng được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng 2. Các tình tiết đó được quy định tại điểm i,s, x khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS. [5].Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 3 Điều 321của Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000đồng đến 50.000.000 đồng”. Tuy nhiên, xét các bị cáo trong vụ án đều không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 của BLHS, điểm a,b khoản 2 điều 106 BLTTHS: quá trình điều tra thu giữ 2 bộ bài tulơkhơ là công cụ các bị cáo phạm tội, không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu huỷ.

Đối với số tiền 12.640.000đ thu giữ của các bị cáo. Xét đây là tiền thu lợi bất chính cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

[7]. Về án phí: các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 điều 321, điểm s khoản 1 điều 51, điều 35, điều 36 BLHS, xử phạt: Lại Thị Ngọc N 12 ( Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ nhưng được trừ 6 ngày tạm giữ x3 cải tạo = 18 ngày. Bị cáo còn phải chấp hành 11 tháng 12 ngày cải tạo không giam giữ về tội “ Đánh bạc”. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày UBND phường B, thành phố V, tỉnh A nhận được bản án và quyết định thi hành án. Giao bị cáo cho UBND phường B, thành phố V giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Buộc bị cáo phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ. Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 4 tiếng/1 ngày và không quá 5 ngày/1tuần. Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại Luật thi hành án hình sự.

- Căn cứ khoản 1 điều 321, điểm điểm s, khoản 1 Điều 51, điều 35 BLHS, xử phạt: Phạm Thị H 30.00.000đ (Ba mươi triệu đồng) về tội “ Đánh bạc”.

Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điều 35BLHS, xử phạt: Phùng Văn T 25.000.000đ (Hai lăm triệu đồng) về tội “ Đánh bạc”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 điều 51, khoản 2 Điều 51, điều 35 Bộ luật hình sự, xử phạt: Lưu Văn H 25.000.000đ (Hai lăm triệu đồng) về tội “ Đánh bạc”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm i,s,x khoản 1 điều 51, khoản 2 Điều 51, điều 35 BLHS, xử phạt: Nguyễn Duy H 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) về tội “ Đánh bạc”.

- Về vật chứng : căn cứ khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a, b khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy 02 bộ bài Tulơkhơ đã được niêm phong hiện có tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vinh theo phiếu nhập kho số NK 0106 ngày 04/12/2019.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 12.640.000đ (Mười hai triệu, sáu trăm bốm mươi ngàn đồng). Số tiền này hiện có tại kho bạc nhà nước tỉnh Nghệ An theo giấy nộp tiền số: CT0001751 ngày 23/9/2019.

- Về án phí: căn cứ điều 136 BLHS, điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của UBTVQH14 buộc các bị cáo Nguyễn Duy H, Lại Thị Ngọc N, Phùng Văn T, Phạm Thị H, Lưu Văn H mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 15/2020/HS-ST ngày 13/01/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:15/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;