Bản án 15/2020/HS-ST ngày 12/02/2020 về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 15/2020/HS-ST NGÀY 12/02/2020 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 12 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 290/2019/HSST ngày 18 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2020/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Thị Như H, sinh ngày 17 tháng 7 năm 1981 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; Nơi cư trú: Khóm A, thị trấn B, huyện C, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 01/12; giới tính: nữ; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nhàm; con ông Trần Như Hảo (đã chết) và bà Đặng Thị Hạnh, sinh năm 1957; chồng: Nguyễn Ngọc N, sinh năm 1980; con: có 02 người con sinh năm 2004 và 2006.

Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh”. Có mặt.

* Người làm chứng:

- Chị Nguyễn Thị Xuân N, sinh năm 1980; địa chỉ: 03 kiệt 18 V, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Có mặt.

- Anh Phạm Văn Th, sinh năm 1971; địa chỉ: thôn T, xã H, thị xã T, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vắng mặt.

- Chị Lê Thị H, sinh năm 1985; địa chỉ: 10/111 N, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Thị Như H có con gái là cháu Nguyễn Thị Thanh A (sinh năm 2004) đang theo học tại trường Trung học phổ thông Nguyễn Huệ, thành phố H. Do có nhu cầu cho con đi Du học nước ngoài nên khoảng tháng 8/2018, Phan Thị Như H chuyển ra tạm trú tại nhà bạn là chị Lê Thị H để tiện cho việc làm hồ sơ du học cho con. Tại Huế, qua giới thiệu, H đã gặp và nhờ ông Phạm Văn Th tư vấn và giúp làm hồ sơ cho con gái H đi du học tại Canada. Ông Th đồng ý giúp và đã cung cấp số điện thoại của một Công ty tư vấn du học tại thành phố Hà Nội để cho H tự liên hệ. Ngoài ra, theo thỏa thuận, ông Th sẽ giúp H trong việc giới thiệu người dịch thuật và chứng thực các loại giấy tờ liên quan trong quá trình làm hồ sơ cho cháu A.

Sau khi nhận các loại giấy tờ như: Học bạ, giấy khen, chứng minh nhân dân...từ H, ông Th đã nhờ chị Nguyễn Thị Xuân Nh dịch từ tiếng Việt sang tiếng Anh và đưa đến chứng thực các bản dịch tại Phòng Tư pháp, thuộc Ủy ban nhân dân thành phố H, rồi nộp cho Công ty tư vấn du học.

Sau khi kiểm tra hồ sơ, Công ty tư vấn du học đã liên hệ và yêu cầu Trần Thị Như H cung cấp thêm giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản là nhà và đất của vợ chồng H bổ sung hồ sơ để chứng minh tài sản bảo đảm về tài chính. Do không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp nên H nảy sinh ý định đặt mua giấy tờ giả để sử dụng. Khoảng tháng 10/2018, tại một quán cà phê trên đường Lê Lợi, thành phố H, H đã liên hệ và thỏa thuận đặt mua của một người không rõ lai lịch, địa chỉ một “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” giả, mang tên vợ chồng H với giá 6.800.000 đồng. Sau mua được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất giả, H đã đưa cho ông Th để để tiếp tục mang đến nhờ chị Nh dịch sang tiếng Anh. Sau khi dịch xong, chị Nh mang đến Phòng tư pháp thành phố H để chứng thực thì bị cơ quan này phát hiện, trình báo cơ quan Công an thành phố H xử lý.

* Vật chứng thu giữ:

- 01 (một) “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” giả, số BA 365623, ghi cấp ngày 17/10/2017; số vào sổ cấp: CH C1785-2017; người sử dụng đất, chủ sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất: ông Nguyễn Ngọc N và bà Trần Thị Như H, cùng trú tại khóm B, thị trấn A, huyện N , tỉnh Cà Mau. Thửa đất số 115, thuộc tờ bản đồ số 3, tọa lạc Lô C35, khu A - Đô thị mới An Vân Dương, phường Xuân Phú, thành phố H.

Tại bản kết luận giám định số 125/GĐ ngày 18/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thừa Thiên Huế kết luận: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” số BA 365623 nêu trên là giả.

Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Trần Thị Nhu H đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, công nhận việc khởi tố của Cơ quan điều tra và truy tố của Viện kiểm sát là đúng với hành vi của bị cáo.

Tại bản cáo trạng số 130/CT-VKS ngày 29 tháng 12 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố bị cáo Trần Thị Như H về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố H đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Trần Thị Như H phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

- Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 06 đến 09 tháng cải tạo không giam giữ. Miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự

Tiếp tục lưu giữ 01 (một) “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” giả, số BA 365623, ghi cấp ngày 17/10/2017; số vào sổ cấp: CH C1785-2017 theo hồ sơ vụ án.

- Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án, Điều tra viên, Kiểm sát viên khi thực hiện hành vi cũng như ban hành các Quyết định tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án này đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Có đủ cơ sở để xác định: Khoảng tháng 10/2019, Trần Thị Như H đã đặt mua của một người (không rõ lai lịch) 01 “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” để làm thủ tục cho con gái du học. Sau đó, H nhờ dịch thuật sang tiếng Anh, rồi đưa đến Phòng tư pháp - Ủy ban nhân dân thành phố H chứng thực thì bị phát hiện. Hành vi nêu trên của bị cáo Trần Thị Như H đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” được quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự năm 2015. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[3] Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức là vi phạm pháp luật nhưng vì động cơ tư lợi, mong muốn có đủ giấy tờ chứng minh về năng lực tài chính để cho con gái du học nên dẫn đến việc phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính thuộc lĩnh vực quản lý và sử dụng giấy tờ, tài liệu của cơ quan tổ chức, gây mất trật tự trị an tại địa phương nên cần xử lý nghiêm.

[4] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng: Bị cáo là người đến thời điểm phạm tội chưa có vi phạm pháp luật gì, chưa có tiền án, tiền sự; không phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ (03 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51), có nơi cư trú rõ ràng, phạm tội do mong muốn con gái mình đủ điều kiện du học nên tính chất, mức độ nguy hiểm ít nghiêm trọng. Do đó, không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà xử phạt bị cáo bằng hình phạt tự cải tạo tại địa phương, giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H tại phiên tòa cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục, phòng ngừa. Do bị cáo có thu nhập không ổn định, nuôi hai con chưa thành niên nên miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: 01 (một) “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” giả, số BA 365623, ghi cấp ngày 17/10/2017; số vào sổ cấp: CH 0785-2017 là chứng cứ phạm tội nên tiếp tục lưu theo hồ sơ vụ án.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Thị Như H phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

2. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt bị cáo Trần Thị Như H 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục bị cáo nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo.

Giao bị cáo Trần Thị Như H cho Ủy ban nhân dân thị trấn N, huyện C, tỉnh Cà Mau giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự

Tiếp tục lưu giữ 01 (một) “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” giả, số BA 365623, ghi cấp ngày 17/10/2017; số vào sổ cấp: CH 0785-2017 theo hồ sơ vụ án.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội

Buộc bị cáo Trần Thị Như H phải chịu 200.000 đồng.

5. Quyền kháng cáo: Án sơ thẩm xét xử công khai báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

256
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 15/2020/HS-ST ngày 12/02/2020 về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức

Số hiệu:15/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;