Bản án 15/2020/HNGĐ-ST ngày 26/05/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN L, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 15/2020/HNGĐ-ST NGÀY 26/05/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 26 tháng 5 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận L xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 642/2019/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 214/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 277/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 5 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị T; đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 13/125 T, phường N, quận L, Hải Phòng; chỗ ở hiện nay: H, xã P, huyện K, tỉnh Hải Dương; có mặt.

- Bị đơn: Anh Trần Xuân P; đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 13/125 T, phường N, quận L, Hải Phòng; chỗ ở hiện nay: Số 18/81 Đ, phường N, quận L, Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 04/11/2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Lê Thị T trình bày: Chị và anh Trần Xuân P xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện K, tỉnh Hải Dương vào ngày 13 tháng 3 năm 2002, đến nay có 02 con chung là Trần Thị Kim N, sinh ngày 03/11/2002 và Trần Thị Minh C, sinh ngày 30/12/2008. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận hạnh phúc nhưng đến cuối năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn do khác biệt nhau về tính cách và suy nghĩ mà không thể dung hòa được; anh P thường xuyên đi sớm về khuya, không quan tâm trách nhiệm với gia đình khiến cho tình cảm vợ chồng bị rạn nứt, thường xuyên cãi vã, xúc phạm lẫn nhau. Hai bên gia đình đã nhiều lần khuyên giải nhưng mâu thuẫn vẫn không thể cải thiện được, từ tháng 11/2019 chị đã về nhà bố mẹ đẻ để ở và vợ chồng ly thân từ đó. Đến nay chị xác nhận mâu thuẫn vợ chồng đã thực sự trầm trọng, tình cảm không còn, tiếp tục cuộc sống chung cũng không mang lại hạnh phúc nên đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh P. Về con chung: Chị đề nghị giao cả hai con chung cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng đến khi thành niên; việc cấp dưỡng nuôi con hai bên tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung: Vợ chồng không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về án phí: Chị T nhận nộp án phí ly hôn sơ thẩm.

Tại các buổi làm việc vào ngày 15/01/2020; ngày 20/01/2020, các buổi hoà giải vào ngày 12/3/2020; ngày 03/4/2020 và tại phiên tòa ngày 05/5/2020; ngày 26/5/2020 anh P đều vắng mặt không có lý do dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ.

Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án; nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự Về việc giải quyết vụ án: Chị T và anh P xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện K, tỉnh Hải Dương vào năm 2002 và có 02 con chung. Quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn và đã ly thân mỗi người một nơi từ tháng 11/2019. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị T được ly hôn anh P; về con chung: Giao cả hai con chung là Trần Thị Kim N, sinh ngày 03/11/2002 và Trần Thị Minh C, sinh ngày 30/12/2008 cho anh P nuôi dưỡng, việc cấp dưỡng nuôi con hai bên tự thỏa thuận; về tài sản chung: Vợ chồng không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết; về án phí: Chị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

- Về tố tụng:

[1] Chị Lê Thị T khởi kiện xin ly hôn anh Trần Xuân P. Đây là tranh chấp về ly hôn và nuôi con khi ly hôn; bị đơn cư trú tại địa bàn quận L, thành phố Hải Phòng. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự; vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận L.

[2] Bị đơn anh Trần Xuân P đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt nên theo quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự thì Tòa án tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

- Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị T và anh Trần Xuân P kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Giấy chứng nhận kết hôn số 13 do Ủy ban nhân dân xã P, huyện K, tỉnh Hải Dương cấp ngày 13 tháng 3 năm 2002 nên được coi là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng nhau về quan điểm sống, tính cách. Từ đó, tình cảm vợ chồng lạnh nhạt, không tìm được tiếng nói chung và đã ly thân mỗi người một nơi từ tháng 11/2019 đến nay, không quan tâm đến nhau về mọi mặt. Quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã nhiều lần triệu tập các bên đến Tòa án để làm việc và tiến hành hoà giải nhưng anh P đều không có mặt; tại phiên toà ngày 05/5/2020 và ngày 26/5/2020 anh P cũng không có mặt để đưa ra quan điểm của mình về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án, điều đó cho thấy anh P đã không thực sự cố gắng trong việc hàn gắn những rạn nứt trong quan hệ tình cảm vợ chồng. Tiến hành thu thập chứng cứ xác minh về thực trạng hôn nhân giữa chị T và anh P tại nơi cư trú và gia đình cho thấy: Vợ chồng phát sinh mâu do không hợp nhau về tính cách, quan điểm sống, nhiều lần xảy ra va chạm, cãi vã nhau; hơn nữa, anh P thường xuyên rượu chè, cứ mỗi lần uống rượu say thì lại chửi mắng, xúc phạm chị T, từ tháng 11/2019 chị T đã về nhà bố đẻ ở và vợ chồng sống ly thân từ đó. Do vậy, việc chị T đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh P là có cơ sở nên cần chấp nhận.

[4] Xét thấy mâu thuẫn giữa chị T và anh P đã thực sự trầm trọng; cuộc sống chung không thể kéo dài; mục đích hôn nhân không đạt được, căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xử cho chị Lê Thị T được ly hôn anh Trần Xuân P là phù hợp.

[5] Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Trần Thị Kim N, sinh ngày 03/11/2002 và Trần Thị Minh C, sinh ngày 30/12/2008, chị T đề nghị giao cả hai con chung cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy: Từ khi vợ chồng sống ly thân, hai con chung đều ở với bố, có cuộc sống ổn định nên giao cả hai con chung cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với điều kiện, hành cảnh thực tế, phù hợp với nguyện vọng của con chung và phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình nên cần chấp nhận. Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung hai bên tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết nên không xem xét.

[6] Về tài sản chung: Vợ chồng không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[7] Về án phí: Chị T phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 207; khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa Chị Lê Thị T và anh Trần Xuân P.

2. Về con chung: Giao con chung là Trần Thị Kim N, sinh ngày 03/11/2002 và Trần Thị Minh C, sinh ngày 30/12/2008 cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con hai bên tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị T phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước. Số tiền này chị T đã nộp đủ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận L theo Biên lai thu tiền số 0013634 ngày 10 tháng 12 năm 2019.

Chị T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh P được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Về quyền thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 15/2020/HNGĐ-ST ngày 26/05/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:15/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;