TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 15/2020/HNGĐ-ST NGÀY 25/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 25 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 215/2020/TLST-HNGĐ ngày 11/11/2020 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 138/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 12 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2021/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1989.
HKTT: Xã V, huyện T, tỉnh Hải Dương.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1980.
Nơi cư trú trước khi xuất cảnh: Xã V, huyện T, tỉnh Hải Dương. Nơi cư trú hiện nay: Liên bang Nga.
Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Ngọc T đều vắng mặt (Chị H có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện xin ly hôn và bản tự khai cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, chị Nguyễn Thị H trình bày: Chị và anh Nguyễn Ngọc T được tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn vào ngày 17 tháng 12 năm 2010 tại UBND Xã V, huyện T, tỉnh Hải Dương. Sau khi chung sống với nhau được một thời gian khoảng 04 năm thì chúng tôi bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng về quan điểm sống, anh T thường xuyên sống ở nước ngoài (Liên bang Nga), ít khi về nước; không quan tâm, chăm sóc mẹ con tôi. Sau nhiều lần được bạn bè và gia đình khuyên nhủ nhưng đều không có kết quả. Từ khi anh T đi nước ngoài thì vợ chồng tôi ít liên lạc, có đôi lần liên lạc để nói chuyện về con chứ giữa chúng tôi không ai còn quan tâm đến cuộc sống riêng của nhau.Tôi xác định mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được.
Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân chị H, anh T có 01 con chung là cháu Nguyễn Ngọc Thủy T1, sinh ngày 11/10/2012. Hiện nay, cháu T1 đang do chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Chị H đề nghị Tòa án cho chị nuôi con chung là cháu T1 và không yêu cầu anh T cấp dưỡng tiền nuôi con chung.
Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp với gia đình: Chị H không đề nghị Tòa án giải quyết.
Tòa án đã tiến hành lấy lời khai của bà Bùi Thị M là mẹ của anh Nguyễn Ngọc T. Tại các biên bản lấy lời khai ngày 03/12/2020 và 21/12/2020, bà M trình bày: Anh T và chị H được tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn vào ngày 17 tháng 12 năm 2010 tại UBND Xã V, huyện T, tỉnh Hải Dương. Hiện nay, anh T đang lao động tại Nga. Anh T đã được bà thông báo các nội dung văn bản tố tụng của Tòa án gửi. Chị H làm đơn xin ly hôn, anh T xác định tình cảm vợ chồng không còn nên anh T đồng ý ly hôn chị H. Do anh T không cung cấp địa chỉ cụ thể ở Nga nên bà không thể cung cấp cho Tòa án.
Theo thông tin do Cục Quản lý xuất nhập cảnh cung cấp tại Công văn số 22316/QLXNC-P5 ngày 01/12/2020 thể hiện: Anh Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 01/8/1980 tại Hải Dương, CMND số: 141994018, địa chỉ thường trú tại: Xã V, huyện T, Hải Dương; đã sử dụng hộ chiếu số AV0084418 do Cục Quản lý xuất nhập cảnh cấp ngày 19/11/1999 (đã hết hạn); có thông tin xuất cảnh lần gần nhất ngày 14/8/2014 qua cửa khẩu sân bay quốc tế Nội Bài bằng hộ chiếu số N1143249 do cơ quan đại diện Viện Nam ở nước ngoài cấp, hiện chưa có thông tin nhập cảnh.
Tại phiên tòa, nguyên đơn và bị đơn đều vắng mặt (Chị H có đơn xin xét xử vắng mặt).
Quan điểm của đại diện VKSND tỉnh Hải Dương: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và nguyên đơn cơ bản đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về quan điểm giải quyết: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy mâu thuẫn của chị H và anh T đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị H được ly hôn anh T; về con chung: giao cháu Nguyễn Ngọc Thủy T, sinh ngày 11/10/2012 cho chị H chăm sóc, nuôi dưỡng. Chấp nhận sự thỏa thuận về cấp dưỡng tiền nuôi con.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị H có hộ khẩu thường trú tại tỉnh Hải Dương, có đơn đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh Nguyễn Ngọc T, là người Việt Nam hiện đang sinh sống tại Nga. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 37, Điều 39, Điều 464 BLTTDS, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền. Tại phiên tòa chị H vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh T vắng mặt lần thứ hai, căn cứ Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vụ án theo quy định. Tòa án xác định đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, vì vậy Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh T được tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn vào ngày 17 tháng 12 năm 2010 tại UBND Xã V, huyện T, tỉnh Hải Dương. Sau khi chung sống với nhau được một thời gian khoảng 04 năm thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng về quan điểm sống, anh T thường xuyên sống ở nước ngoài (Liên bang Nga), ít khi về nước; không quan tâm, chăm sóc mẹ con chị H. Từ khi anh T đi nước ngoài, vợ chồng ít liên lạc, không ai còn quan tâm đến cuộc sống riêng của nhau. Chị H xác định mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn. Mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa chị H, anh T cũng được đại diện gia đình anh T và chính quyền địa phương xác nhận. HĐXX xét thấy hôn nhân của chị H và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, không ai quan tâm đến ai, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận cho chị H ly hôn với anh T là phù hợp quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[3] Về quan hệ nuôi con chung: Vợ chồng chị H và anh T có 01 con chung là cháu Nguyễn Ngọc Thủy T1, sinh ngày 11/10/2012. Hiện nay, cháu T1 đang do chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Chị H đề nghị Tòa án cho chị nuôi con chung và không yêu cầu anh T cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Xét thấy, chị H có chỗ ăn ở, có sức lao động nên đủ điều kiện nuôi con. Việc chăm sóc, nuôi dưỡng con chung vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của cha, mẹ. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung nên giao con chung cho chị H nuôi dưỡng là phù hợp với các Điều 58, 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Sau này anh T về Việt Nam sinh sống có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết về việc thay đổi quyền nuôi con theo quy định. Do chị H tự nguyện tạm thời chưa yêu cầu anh T cấp dưỡng nên Tòa án không xem xét việc cấp dưỡng nuôi con chung, sau này chị H có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật.
[4] Về quan hệ tài sản chung: Chị H và anh T không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xem xét.
[5] Về án phí: Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 BLTTDS; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình:
khoản 1 Điều 28, điểm c khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147, Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273, Điều 464 và Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30- 12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H. Xử cho chị Nguyễn Thị H ly hôn anh Nguyễn Ngọc T.
2. Về quan hệ nuôi con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là cháu Nguyễn Ngọc Thủy T1, sinh ngày 11/10/2012 đến khi đủ 18 tuổi trưởng thành. Chị H tự nguyện không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung. Chị H có quyền khởi kiện yêu cầu anh T cấp dưỡng tiền nuôi con chung theo quy định của pháp luật.
Anh Nguyễn Ngọc T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn đồng) đồng án phí sơ thẩm dân sự (Hôn nhân và gia đình), đối trừ với 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương, theo biên lai thu số AA/2018/0004772 ngày 05/11/2020. Chị H đã nộp đủ án phí.
4. Về quyền kháng cáo: Chị H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày; anh T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 15/2020/HNGĐ-ST ngày 25/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 15/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 25/01/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về