Bản án 15/2020/HNGĐ-ST ngày 13/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DẦU TIẾNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 15/2020/HNGĐ-ST NGÀY 13/05/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 13 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 08/2020/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 01 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 03 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Thị Thu H, sinh năm 1991; hộ khẩu thường trú: Ấp C, xã M, huyện D, tỉnh B.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh S, sinh năm 1989; hộ khẩu thường trú: Ấp C, xã M, huyện D, tỉnh B.

Nguyên đơn có văn bản xin vắng mặt, bị đơn vắng mặt lần thứ hai không lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn xin ly hôn ngày 13 tháng 12 năm 2019, tài liệu, chứng cứ thu thập trong quá trình tham gia tố tụng và chủ tọa phiên tòa công bố lời trình bày của nguyên đơn (bà H) tại phiên tòa:

Bà H và ông S chung sống với nhau, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại UBND xã Minh Thạnh, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương vào ngày 01/7/2010.

Quá trình chung sống hai vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn nhau, bất đồng quan điểm sống, đời sống chung vợ chồng không có hạnh phúc nên bà H quyết định làm đơn ly hôn với ông S.

Nay tại buổi hòa giải bà H thay đổi ý kiến về cấp dưỡng nuôi con chung như sau:

- Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Thanh T, sinh ngày 29/12/2010. Bà H yêu cầu nuôi con chung và không yêu cầu ông S cấp dưỡng nuôi con chung.

- Tài sản chung, nợ chung không tranh chấp, không yêu cầu giải quyết.

Ngoài ra nguyên đơn không có yêu cầu, tranh chấp gì khác.

* Đối với bị đơn ông Nguyễn Thanh S:

Quá trình tiến hành tố tụng, Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng đã tiến hành đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự để bị đơn ông Sang tham gia giải quyết vụ án nhưng bị đơn cố tình vắng mặt không có lý do. Tòa án không thu thập được ý kiến của bị đơn. Quá trình xác minh, bị đơn có đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp Cây Liễu, xã Minh Thạnh, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương và vẫn đang sinh sống tại địa phương.

* Đại diện iện i m sát phát bi u tại phiên tòa:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ, tống đạt các văn bản tố tụng đầy đủ, đúng trình tự thủ tục, người tham gia tố tụng có mặt nguyên đơn, bị đơn đã đượ ctriệu tập tham gia phiên tòa nhưng cố ý vắng mặt. Phiên tòa được tiến hành đúng trình tự. Nguyên đơn đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Bị đơn không tuân thủ đúng quy định pháp luật.

Về nội dung vụ án: Các tài liệu, chứng cứ được Hội đồng xét xử làm rõ tại phiên tòa cho thấy yêu cầu ly hôn, nuôi con của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà H khởi kiện ông S về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con. Ông S hiện đang cư trú tại ấp Cây Liễu, xã Minh Thạnh, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Bà H và ông S chung sống với nhau từ năm 2010, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Minh Thạnh, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương. Vợ chồng sống chung hạnh phúc cho đến tháng 6 năm 2019 phát sinh mâu thuẫn và không còn sống chung với nhau (ly thân). Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, hai vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau, đời sống chung vợ chồng không có hạnh phúc. Bà H cho rằng bà không còn tình cảm với ông S, mâu thuẫn tình cảm ngày càng trở nên trầm trọng. Vì vậy, bà H làm đơn xin ly hôn với ông S.

Bà H xin ly hôn với ông S, Tòa án đã tiến hành triệu tập ông S nhiều lần đến Tòa án để hòa giải, hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng ông S vẫn không có mặt. Điều này cho thấy ông S không còn muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng. Đồng thời, theo các biên bản xác minh ngày 18 tháng 02 năm 2019 thì nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, tính tình không hợp nhau, ông S thường xuyên gây gỗ đánh bà H. Hội đồng xét xử nhận thấy: Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Thế nhưng cuộc sống vợ chồng giữa bà H và ông S không đạt được những điều đó. Nên yêu cầu xin ly hôn của bà H là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Bà H và ông S có 01 con chung 01 con chung tên Nguyễn Thanh Tuấn, sinh ngày 29/12/2010. Bà Hương có thu nhập ổn định. Bà H yêu cầu được nuôi con chung. Tòa án tham khảo ý kiến của cháu T và cháu Tuấn có nguyện vọng chung sống với bà H. Đây là sự tự nguyện, là ý chí tự nguyện của con chung, phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà H không yêu cầu nên không xem xét.

[5] Tài sản chung, nợ chung: Bà H không yêu cầu nên không xem xét.

[6] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng là phù hợp nên chấp nhận.

[7] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà H phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 235, 266, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 51, 53, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Thu H đối với ông Nguyễn Thanh S về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

+ Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Thu H ly hôn với ông Nguyễn Thanh S.

+ Về con chung: Giao cho bà Lê Thị Thu H trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Thanh T, sinh ngày 29/12/2010.

+ Về cấp dưỡng nuôi con: Bà H không yêu cầu nên không xem xét.

Hai bên được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định của pháp luật. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

2. Tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Lê Thị Thu Hg chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) và được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí mà bà Hương đã nộp theo biên lai thu số AA/2016/0032362 ngày 03 tháng 01 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 15/2020/HNGĐ-ST ngày 13/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:15/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dầu Tiếng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;