TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH ĐĂK NÔNG
BẢN ÁN 15/2020/DS-ST NGÀY 28/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 28 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đăk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 90/2020/TLST-DS ngày 08/6/2020 về“Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/20120/QĐXXST-DS ngày 17/8/2020 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức T, sinh năm 1952; Địa chỉ: Thôn B, xã Đ, huyện T, tỉnh Đắk Nông. Có mặt.
Đồng bị đơn: Ông Lê Quang Q, sinh năm 1957; bà Phạm Thị L, sinh năm 1962;
Cùng địa chỉ: Thôn M, xã Qu, huyện T, Đắk Nông. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện của và trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên toà nguyên đơn ông Nguyễn Đức T trình bày:
Do mối quan hệ quen biết nên vào ngày 05/5/2016 (âm lịch) tức ngày 09/6/2016 (dương lịch) ông Nguyễn Đức T cho vợ chồng ông Lê Quang Q bà Phạm Thị L vay số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) ông Q bà L tự nguyện thỏa thuận lãi suất 3%/tháng và hẹn đến ngày 05/5/2017 (âm lịch) tức ngày 30/5/2017 (dương lịch) sẽ trả tiền gốc và tiền lãi. Việc vay mượn hai bên có làm giấy tờ viết tay giữa ông T và vợ chồng ông Q, bà L ký xác nhận. Đến hẹn trả nợ ông T đã nhiều lần yêu cầu vợ chồng ông Q, bà L trả nợ đã vay như thỏa thuận tuy nhiên ông Q, bà L khất nợ nhiều lần sau đó không trả, vì vậy ông T đã khởi kiện ra Tòa án giải quyết yêu cầu ông Q bà L trả số tiền gốc là 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) và yêu cầu tính lãi suất chậm trả theo quy định pháp luật đến thởi điểm xét xử. Trong quá trình Tòa án giải quyết ông T đã rút yêu cầu tính lãi suất, chỉ yêu cầu vợ chồng ông Lê Quang Q bà Phạm Thị L trả 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) tiền gốc. Ông Nguyễn Đức T đưa ra chứng cứ là giấy vay tiền vợ chồng ông Q, bà L ký xác nhận.
* Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa đồng bị đơn ông Lê Quang Q và bà Phạm Thị L đã được Tòa án tống đạt, niêm yết hợp lệ giấy triệu tập, các văn bản tố tụng nhưng ông Q, bà L không hợp tác làm việc giải quyết vụ án. Tại phiên tòa ông Q, bà L vắng mặt không có lý do.
* Phần tranh luận: Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và trình bày lý do cho ông Q, bà L vay tiền là do mối quan hệ quen biết và vợ chồng ông Q, bà L đang gặp khó khăn. Do ông Q, bà L vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên ông T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Q, bà L trả số tiền gốc là 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) và không yêu cầu tính lãi suất đối với số tiền này.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T phát biểu quan điểm về trình tự thủ tục tố tụng và hướng xử lý vụ án:
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về trình tự thủ tục tố tụng: Thẩm phán thiết lập hồ sơ đúng trình tự theo quy định pháp luật, Hội đồng xét xử đúng thành phần; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án là đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung, đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX: Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 244 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Áp dụng khoản 1 Điều 275; Điều 351; Điều 385; Điều 463; Điều 466 của Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường Quốc hội khóa 14.
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Đức T, buộc ông Lê Quang Q và bà Phạm Thị L phải trả cho ông Nguyễn Đức T số tiền 20.000.000 đồng.
- Đình chỉ giải quyết yêu cầu tính lãi suất đối với số tiền 20.000.000 đồng.
- Buộc ông Lê Quang Q và bà Phạm Thị L phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Trả lại cho ông Nguyễn Đức T số tiền 500.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, đối chiếu với các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền giải quyết và thủ tục tố tụng:
Đồng bị đơn ông Lê Quang Q và bà Phạm Thị L có địa chỉ tại Thôn M, xã Qu, huyện T, Đắk Nông. Do đó, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đăk Nông theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt, niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành tống đạt các thủ tụng tố tụng cho đồng bị đơn theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng đồng bị đơn không có mặt tại địa phương. Tòa án đã tiến hành xác minh tại Công an xã Qu, huyện T, tỉnh Đăk Nông, kết quả xác minh ông Q, bà L có đăng ký hộ khẩu thường trú tại Thôn M, xã Qu, huyện T, Đắk Nông, tuy nhiên từ ngày 04/7/2019 ông Q, bà L đã cắt khẩu và chuyển đến xã E, huyện Kr, tỉnh Đăk Lăk sinh sống. Tòa án tiếp tục xác minh tại Công an xã E, huyện Kr, tỉnh Đăk Lăk, kết quả xác minh: Qua kiểm tra hồ sơ lưu trữ đến ngày 10/8/2020 Công an xã E chưa tiếp nhận hồ sơ đăng ký nhập khẩu của ông Lê Quang Q và bà Phạm Thị L có địa chỉ tại Thôn M, xã Qu, huyện T, Đắk Nông chuyển về. Đối chiếu với quy định tại khoản 3 Điều 40 của Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về nơi cư trú của cá nhân thì “Trường hợp một bên trong quan hệ dân sự thay đổi nơi cư trú gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thì phải thông báo cho bên kia biết về nơi cư trú mới” và tại điểm e khoản 1 Điều 192 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định “Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về nơi cư trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung” như vậy việc ông Q, bà L làm thủ tục cắt khẩu tại Thôn M, xã Qu, huyện T, Đắk Nông và chuyển đến xã E, huyện Kr, tỉnh Đăk Lăk nhưng không nhập khẩu tại xã E, huyện Kr, tỉnh Đăk Lăk đã vi phạm khoản 3 Điều 40 của Bộ luật dân sự năm 2015 và điểm e khoản 1 Điều 192 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên Tòa án xác định ông Q, bà L cố tình giấu địa chỉ và tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Tòa án đã tiến hành lập biên bản về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ vắng mặt đồng bị đơn và biên bản không tiến hành hòa giải được theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa hôm nay đồng bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt đồng bị đơn.
[2] Về quan hệ pháp luật và nội dung tranh chấp:
Đối tượng tranh chấp là số tiền vay 20.000.0000 đồng. Nguyên đơn trình bày đây là tài sản hợp pháp của nguyên đơn, thuộc quyền sở hữu của nguyên đơn và đã cho đồng bị đơn vay theo hợp đồng vay tài sản giữa hai bên, do đồng bị đơn vi phạm nghĩa vụ nên nguyên đơn khởi kiện ra Tòa án và Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định pháp luật vì vậy, quan hệ pháp luật trong vụ án này là tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
[3] Nhận định của Hội đồng xét xử:
[3.1] Về hợp đồng vay tài sản giữa ông Nguyễn Đức T và vợ chồng ông Lê Quang Q, bà Phạm Thị L là giao dịch dân sự hợp pháp. Theo hợp đồng trong thời gian vay tiền từ ngày 05/5/2016 (âm lịch) tức ngày 09/6/2016 (dương lịch) đến ngày 05/5/2017 (âm lịch) tức ngày 30/5/2017 (dương lịch) bên vay phải trả tiền gốc và lãi suất. Ông T đã đưa tiền vay cho ông Q, bà L nhưng đến hạn ông T đã nhiều lần yêu cầu trả nợ nhưng ông Q, bà L không thực hiện nghĩa vụ trả nợ vì vậy ông Q, bà L đã vi phạm hợp đồng, vi phạm nghĩa vụ trả nợ vay khi đến hạn.
[3.2] Trong quá trình Tòa án giải quyết và tại phiên tòa ông T đã rút yêu cầu tính lãi suất, chỉ yêu cầu vợ chồng ông Lê Quang Q bà Phạm Thị L trả 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) tiền gốc, đây là sự tự nguyện của nguyên đơn và phù hợp với quy định tại Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về xem xét việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu nên cần chấp nhận. Vì vậy, HĐXX đình chỉ giải quyết yêu cầu tính lãi suất đối với số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).
[3.3] Căn cứ vào diễn biến sự việc, chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ, diễn biến tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy có căn cứ chứng minh vào ngày 09/6/2016 ông Nguyễn Đức T đã cho vợ chồng ông Lê Quang Q bà Phạm Thị L vay số tiền 20.000.000 đồng. Thời gian vay kể từ ngày 09/6/2016 đến ngày 30/5/2017. Khi đến hạn trả nợ ông Q, bà L không trả vì vậy có căn cứ chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, cần buộc ông Q, bà L phải cho nguyên đơn ông Nguyễn Đức T số tiền 20.000.000 đồng.
[3.4] Trong quá trình giải quyết vụ án do đồng bị đơn cố tình giấu địa chỉ, không thông báo cho chính quyền địa phương và nguyên đơn biết địa chỉ mới của mình thể hiện việc đồng bị đơn từ bỏ quyền lợi của mình nên Tòa án căn cứ khoản 4 Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để giải quyết. Khoản 4 Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Toà án giải quyết vụ án dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc”.
[3.5] Số tiền ông T cho vợ chồng ông Q, bà L vay là tài sản riêng của ông T. Trong quá trình giải quyết vụ án bà Vũ Thị Lý (vợ ông T) thừa nhận đây là tài sản riêng của ông T, không liên quan đến bà và bà không có yêu cầu gì trong vụ án này. [4] Từ những phân tích nêu trên HĐXX xét thấy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Đức T, buộc vợ chồng ông Lê Quang Q bà Phạm Thị L phải trả cho ông Nguyễn Đức T số tiền gốc là 20.000.000 đồng [5] Về án phí: Đồng bị đơn ông Lê Quang Q bà Phạm Thị L phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 244 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Áp dụng khoản 1 Điều 275; Điều 351; Điều 385; Điều 463; Điều 466 của Bộ luật dân sự năm 2015.
1. Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Đức T.
Buộc đồng bị đơn ông Lê Quang Q bà Phạm Thị L phải trả cho nguyên đơn ông Nguyễn Đức T số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).
Đình chỉ giải quyết yêu cầu tính lãi suất đối với số tiền 20.000.000 đồng.
Áp dụng khoản 2 Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 để tính lãi suất chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo quy định của pháp luật.
2. Về án phí: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Áp dụng khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14. Buộc ông Lê Quang Q và bà Phạm Thị L chịu 1.000.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại cho ông Nguyễn Đức T số tiền 500.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí lệ phí tòa án số 0001160 ngày 03/6/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện T.
3. Về quyền kháng cáo:
Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Đồng bị đơn được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án tại chính quyền địa phương và nơi cư trú.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 15/2020/DS-ST ngày 28/09/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 15/2020/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tuy Đức - Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 28/09/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về