Bản án 15/2019/HS-ST ngày 16/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHƯ XUÂN - TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 15/2019/HS-ST NGÀY 16/05/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Như Xuân xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 10/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2019/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 5 năm 2019, đối với bị cáo:

Nguyễn Trọng H, sinh ngày 07/11/1976 tại xã L, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: Thôn Y, xã L, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn D và bà Dương Thị M (đều đã chết); có vợ là Trịnh Thị L và 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2012; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 28/10/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thách là 18 tháng về tội “Đánh bạc”; phạt bổ sung 4.000.000đ, đến ngày 06/3/2018 Nguyễn Trọng H mới chấp hành xong hình phạt bổ sung và án phí; nhân thân: Ngày 12/9/2014, bị Công an thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xử phạt hành chính về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” bằng hình thức phạt tiền 1.000.000đ (đã chấp hành xong); bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/9/2017. Có mặt.

Người làm chứng: Chị Hà Thị T - Sinh năm 1984

Nơi cư trú: Thôn B, xã V, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa.

Hiện đang chấp hành Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy số 1 Thanh Hóa. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 20 giờ 30 phút ngày 09/9/2017, tại phòng trọ của gia đình bà Hằng Cầu ở khu phố 1, thị trấn Yên Cát, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa, Tổ công tác Đội 2, thuộc phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an tỉnh Thanh Hóa đang làm nhiệm vụ đã phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Trọng H đang có hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho Hà Thị T1 01 gói ma túy (Heroine) với giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng). Kiểm tra Hoàng Văn T2 đã thu giữ trong túi quần bên phải T2 đang mặc 01 gói giấy màu trắng đựng chất bột màu trắng dạng vụn cục, T1 và T2 khai nhận đó là gói Heroine mà T1 vừa mua của H, T1 và T2 cùng nhau góp tiền 500.000đ (Thanh góp 100.000đ, Thạch góp 400.000đ) để T1 mua gói Heroine này của H. H khai nhận, tờ tiền 500.000đ Công an thu của H là tiền T1 vừa đưa cho H nhờ mua Heroine. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với H, thu giữ niêm phong vật chứng nghi là ma túy trên ký hiệu M; ngoài ra còn thu giữ của H 1.800.000đ (một triệu tám trăm nghìn đồng), trong đó có 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) là tiền H vừa bán ma túy cho T1 và T2, 01 chiếc điện thoại Sam Sung màu vàng nhạt, 01 chiếc điện thoại Nokia màu đen, 01 ví da, 01 giấy CMND, 01 giấy phép lái xe hạng E và 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu SH có biển kiểm soát 36B3-570.89 (BL: 05 -> 08; 19).

Tại bản Kết luận giám định số: 2009/MT-PC54 ngày 15/9/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận về vật chứng của Phòng PC 47, Công an tỉnh Thanh Hóa thu giữ trong vụ Nguyễn Trọng H ngày 09/9/2017: Chất bột màu trắng ngà dạng vụn cục của phong bì ký hiệu M gửi giám định là ma túy, có trọng lượng 0,046 gam, loại Heroine (BL: 15 -> 20).

Quá trình điều tra, Nguyễn Trọng H khai nhận: Khoảng 20 giờ ngày 09/9/2017, khi H đang ở nhà thì chị T1 gọi điện cho H và nhờ H mua cho T1 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) tiền Heroine, H đồng ý và đi xe máy đến xóm trọ của T1 ở khu phố 1, thị trấn Yên Cát, huyện Như Xuân. Đến nơi H gặp T1 ở phòng trọ của chị Hà Thị P, tại đây T1 đưa cho H 01 tờ tiền mệnh giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng), H nhận tiền từ tay Thanh và bỏ vào ví thì ngay lúc này Công an vào kiểm tra bắt quả tang. Công an kiểm tra phát hiện trong túi quần phía sau bên phải H đang mặc có 01 ví da, bên trong có 1.800.000đ (một triệu tám trăm nghìn đồng), trong đó có 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) là tiền T1 vừa đưa cho H; ngoài ra Công an còn thu giữ của H một số tài sản, đồ vật khác như đã nêu trên (BL: 05 -> 08; 19; 70 -> 93; 336 -> 343).

Hà Thị T1, sinh năm 1984, trú tại thôn B, xã V, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa và Hoàng Văn T2, sinh năm 1978, trú tại số nhà 440 T, phường S, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa khai nhận: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 09/9/2017, T1 và T2 đang ở phòng trọ của Hà Thị P ở khu phòng trọ của bà Hằng Cầu, thuộc khu phố 1, thị trấn Yên Cát, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Tại đây, T1 và T2 góp chung với nhau 500.000đ (năm trăm nghìn đồng), trong đó T1 góp 100.000đ (một trăm nghìn đồng), T2 góp 400.000đ (bốn trăm nghìn đồng) để mua Heroine sử dụng, sau đó T1 gọi điện thoại cho Nguyễn Trọng H ở xã L, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa hỏi mua Heroine, H đồng ý bán và hẹn nhau mua bán Heroine ở phòng trọ. Khi H đến thì gặp T1 ở phòng trọ của chị P, tại đây T1 đưa cho H 01 tờ tiền mệnh giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) để mua Heroine của H, H cầm tiền và bán cho T1 01 gói Heroine, T1 nhận gói Heroine rồi đưa cho T2 cầm, ngay lúc này bị Công an phát hiện bắt quả tang. Thu trong người H 1.800.000đ (một triệu tám trăm nghìn đồng), trong đó có tờ tiền 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) là tiền H vừa bán ma túy cho T1 và thu trong túi quần bên phải của T2 đang mặc 01 gói nhỏ Heroine mà T1 vừa mua của H. Ngoài lần mua bán ma túy bị bắt ngày 09/9/2017 trên thì T1 và T2 còn khai: Khoảng 22 giờ ngày 08/9/2017, T1 và T2 góp chung với nhau 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), trong đó T1 góp 100.000đ (một trăm nghìn đồng), T2 góp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) để T1 trực tiếp mua 01 gói Heroine của H tại quán cà phê Đức Giang ở gần thị trấn Nông Cống (xã Tế Lợi, huyện Nông Cống), tỉnh Thanh Hóa để T1 và T2 cùng nhau sử dụng (BL: 94 -> 127).

Hà Thị P, sinh năm 1990, trú tại thôn B, xã V, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa và chồng là Phạm Văn C, sinh năm 1983, trú tại khu phố X, thị trấn S, huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa khai nhận: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 09/9/2017, hai vợ chồng C, P đang ở phòng trọ tại khu phố 1, thị trấn Yên Cát, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa, lúc này còn có chị gái P tên là T1 và anh T2 là bạn của chị T1 ở thành phố Thanh Hóa thì có anh H là người xã L, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa đến gặp T1 tại phòng trọ. Chị P và anh C nhìn thấy T1 đưa cho H 01 tờ tiền 500.000đ (năm trăm nghìn đồng), H cầm tiền bỏ vào ví và lấy từ trong túi quần ra 01 gói giấy nhỏ màu trắng đưa cho T1. Ngay lúc này lực lượng Công an vào bắt H, T1 và T2. Công an kiểm tra người H phát hiện 01 ví da, trong đó có 1.800.000đ (một triệu tám trăm nghìn đồng) và có tờ tiền 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) là tiền T1 vừa đưa cho H; kiểm tra T2 phát hiện trong túi quần bên phải đang mặc có 01 gói giấy (gói giấy mà H vừa đưa cho T1) mở ra bên trong có chất màu trắng dạng cục vụn, T1 và T2 khai nhận đó là gói Heroine mà Thanh vừa mua của H (BL: 128 -> 148).

Vật chứng gồm: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung, màu vàng nhạt, loại màn hình cảm ứng đã cũ; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, loại bàn phím đã cũ; 01 phong bì do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành số: 2009/MT-PC54, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Nguyễn Quang Hùng, Trần Thị Thúy Hằng, Nguyễn Văn Chung, Nguyễn Văn Chùy và các hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, bên trong phong bì là 0,032g ma túy sau giám định (Biên bản giao nhận và niêm phong mẫu vật sau trích mẫu giám định ngày 12/9/2017); 01 Giấy CMND và 01 Giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Trọng H; Số tiền 1.800.000đ, trong đó gồm các tờ tiền có mệnh giá khác nhau, có tờ tiền mệnh giá 500.000đ có 3 số sêrri cuối là “482”.

Các vật chứng trên đã chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Như Xuân chờ xử lý, theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 30/11/2017 giữa Công an tỉnh Thanh Hóa và Chi cục thi hành án dân sự huyện Như Xuân.

Đi với Hà Thị T1 và Hoàng Văn T2 có hành vi góp tiền mua ma túy sử dụng bị bắt quả tang ngày 09/9/2017, trong người T2 có 01 gói giấy nhỏ chứa chất bột màu trắng dạng cục vụn, qua giám định có trọng lượng 0,046g, loại Heroine chưa đủ định lượng xử lý về hình sự nên CSĐTTP đã xử phạt hành chính.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Nguyễn Trọng H chỉ thừa nhận ngày 09/9/2017 có nhận của Hà Thị T1 500.000đ để đi mua hộ ma túy, nhưng chưa kịp mua thì bị Công an bắt giữ;

Người làm chứng là Hà Thị T1 khai báo đầy đủ các tình tiết, nội dung vụ việc như T1 đã khai báo trong quá trình điều tra.

Bản cáo trạng số: 21/CTr-VKS-P1 ngày 02/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa truy tố bị cáo Nguyễn Trọng H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Nguyễn Trọng H đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Khoản 1 Điều 194; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 33 của Bộ luật hình sự năm 1999.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Trọng H với mức án từ 36 đến 42 tháng tù. Áp dụng: Khoản 5 Điều 194; Điều 30 của Bộ luật hình sự năm 1999. Phạt: Bị cáo Nguyễn Trọng H từ 13.000.000đ đến 15.000.000đ.

Ngoài ra, Viện kiểm sát còn đề nghị xử lý vật chứng và buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phần tranh luận, bị cáo H không đồng ý với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo chỉ thừa nhận là đồng ý bán Heroine cho chị T1 và đến phòng trọ nhận 500.000đ từ tay chị T1 để đi mua Heroine, nhưng chưa đi mua thì bị bắt. Số Heroine trong túi quần của T2 không phải của bị cáo và phủ nhận hoàn toàn việc mua bán Heroine tại quán cà phê Đức Giang ở Nông Cống vào ngày 08/9/2017.

Đại diện Viện kiểm sát đối đáp: Giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo.

Lời nói sau cùng, bị cáo H đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo không phạm tội như đại diện Viện kiểm sát đề nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1.1] Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án: Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 09/9/2017, tại khu nhà trọ “Hằng Cầu” ở khu phố 1, thị trấn Yên Cát, huyện Như Xuân, Tổ công tác - Phòng CSĐTTP về ma túy - Công an tỉnh Thanh Hóa đã phát hiện bắt quả tang Nguyễn Trọng H có hành vi mua bán trái phép chất ma túy với Hà Thị T1 và Hoàng Văn T2. Thu giữ trong túi quần bên phải của T2 01 gói giấy màu trắng, bên trong có chất bột màu trắng ngà, dạng vụn cục (kết quả giám định gói chất bột là ma túy có khối lượng 0,046 gam, loại Heroine), T2 và T1 khai vừa mua của H. Thu giữ của H 01 ví da, bên trong có 1.800.000đ, trong đó có 01 tờ tiền mệnh giá 500.000đ, H khai là tiền T1 vừa đưa cho H nhờ mua Heroine. Mặc dù bị cáo H không thừa nhận gói ma túy thu giữ trong túi quần của T2 là của bị cáo đưa cho T1, nhưng căn cứ vào vật chứng đã thu được, căn cứ vào lời khai thống nhất giữa T1, T2 (BL: 94 -> 127) và lời khai của các nhân chứng là Phạm Văn C và Hà Thị P (BL: 128 -> 148) có mặt trong phòng trọ, đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo H đủ yếu tố cấu thành “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999.

[2] Xét tính chất của vụ án: Đây là vụ án hình sự “Mua bán trái phép chất ma túy” có tính chất nghiêm trọng do Nguyễn Trọng H thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy, xâm hại trật tự an toàn xã hội. Tệ nạn nghiện hút ma túy là một trong những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh các loại tệ nạn và tội phạm nguy hiểm khác. Bị cáo nhận thức rõ tác hại của tệ nạn ma túy và việc mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng do hám lợi và để thỏa mãn những dục vọng thấp hèn đã cố tình phạm tội. Với tính chất nghiêm trọng của vụ án như đã nêu trên, cần có đường lối xử phạt nghiêm minh để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung, đồng thời việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

[3.1] Bị cáo Nguyễn Trọng H là đối tượng có nhân thân xấu, đã bị xử lý hình sự và xử lý hành chính nhiều lần, trong đó có 01 tiền án, nay lại tiếp tục phạm tội, thuộc trường hợp tái phạm và bị cáo phải chịu tình tiết tăng năng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 1999.

[3.2] Tuy nhiên, lượng ma túy là tang vật của vụ án có khối lượng không lớn (0,046 gam) nên khi quyết định hình phạt cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được có sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo, sớm trở thành người công dân tốt.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội với mục đích vụ lợi nên cần thiết áp dụng khoản 5 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999 phạt bị cáo 10.000.000đ để nộp ngân sách nhà nước.

[5] Về vật chứng:

- Đối với 0,032 gam ma túy, loại Heroine (còn lại sau giám định) là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy;

- Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung là phương tiện phạm tội của bị cáo H; và số tiền 500.000đ là tiền do bị cáo phạm tội mà có cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước;

- Đối với 01 chiếc ví da, 01 Giấy CMND và 01 Giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Trọng H là giấy tờ cá nhân của bị cáo; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia và số tiền 1.300.000đ là những tài sản hợp pháp của Nguyễn Trọng H, không liên quan đến vụ án cần trả lại cho bị cáo.

[6] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Trọng H và phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 194; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 33; Điều 30; Điều 41 của Bộ luật hình sự năm 1999; Khoản 1, các điểm a, b khoản 2, điểm b khoản 3, Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 6; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trọng H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Trọng H 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/9/2017.

Phạt: Bị cáo Nguyễn Trọng H 10.000.000đ để nộp ngân sách nhà nước. Bị cáo phải nộp tiền phạt một lần sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Vt chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 0,032 gam ma túy, loại Heroine (còn lại sau giám định) trong phong bì niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa;

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung và số tiền 500.000đ;

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Trọng H 01 chiếc ví da, 01 Giấy chứng minh nhân dân và 01 Giấy phép lái xe; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia và số tiền 1.300.000đ.

Các vật chứng trên hiện đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Như Xuân quản lý, theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 30/11/2017 giữa Công an tỉnh Thanh Hóa và Chi cục thi hành án dân sự huyện Như Xuân.

Án phí: Bị cáo Nguyễn Trọng H phải nộp 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại khoản 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

369
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 15/2019/HS-ST ngày 16/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:15/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Như Xuân - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;