Bản án 15/2019/HSST ngày 10/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG ẢNG - TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 15/2019/HSST NGÀY 10/07/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Ẳ, huyện M, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 19/2019/HSST, ngày 19 tháng 6 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2019/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Đình M; Tên khác: Không; Sinh năm: 1968; NĐKHKTT: Tổ X, thị trấn M, huyện M, tỉnh Điện Biên; Nơi cư trú: Tổ X, thị trấn M, huyện M, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 7/10; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vũ Viết C, sinh năm 1929 và con bà Lã Thị N (đã chết); Bị cáo có vợ là Khúc Thị N; sinh năm 1966; Bị cáo có 02 người con, con lớn sinh năm 1991, con nhỏ sinh năm 1994; tiền án: không; tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/3/2019 đến ngày xét xử, bị cáo được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì hành vi phạm tội của Vũ Đình M được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 10/3/2019 trên đường từ nhà ở thuộc Tổ X, thị trấn M đến trung tâm Methadone tại bản H, xã V, huyện M để uống Methadone M đã gặp và mua của 01 người đàn ông dân tộc Thái không biết tên, tuổi, địa chỉ 10 viên Hồng phiến (Methamphetamine) được gói bằng cách mảnh túi ni lông màu hồng với giá 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng). Sau khi mua được Methamphetamine M mang về nhà và đã sử dụng hết 04 viên. Đến khoảng 8 giờ 00 ngày 11/3/2019 khi M đang ở nhà một mình thì có 01 người đàn ông dân tộc Thái mà M không quen biết đến hỏi mua Methamphetamine, M đã bán cho người Thái đó 01 viên Methamphetamine với giá 50.000đ (Năm mươi nghìn đồng), sau khi mua được Methamphetamine người đó đi đâu thì M không biết. Cùng thời gian đó Tổ Công tác Công an huyện Mường Ảng làm nhiệm vụ vào nhà M để kiểm tra. Khi thấy tổ công tác M đã dùng tay trái móc 05 viên Methamphetamine được gói bằng các mảnh ni lông màu đỏ, gói trong vỏ kẹo màu đỏ có khối lượng 0,49 gam tại túi áo khoác bên trái đang mặc ném lên trên mái chuồng chim bồ câu. Tổ công tác đã mời người chứng kiến lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng và 50.000đ.

Tại Biên bản niêm phong vật chứng hồi 09 giờ 05 phút; hồi 09 giờ 25 phút cùng ngày 11/3/2019 thì vật chứng thu giữ của Vũ Đình M là 05 viên nén màu hồng có ký hiệu WY được gói bằng mảnh túi ni lông màu đỏ, được gói trong vỏ kẹo màu đỏ nghi là ma túy tổng hợp Hồng phiến; 01 tờ tiền có mệnh giá 50.000đ (năm mươi nghìn đồng).

Tại Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 11/3/2019 thì 05 viên nén màu hồng được gói trong vỏ kẹo màu đỏ đều có ký hiệu WY được gói bằng mảnh túi ni lông màu hồng nghi là Hồng phiến có khối lượng là: 0,49 gam.

Tại bản kết luận giám định số 342/GĐ-PC09, ngày 22/3/2019 của cơ quan giám định kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên, kết luận: 0,49 gam thu giữ của Vũ Đình M là ma túy: Loại Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy có số thứ tự: 323, Mục IIC, danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018. Không hoàn lại mẫu sau khi giám định.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu.

Cáo trạng số 18/CT - VKSMA, ngày 17/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng đã truy tố bị cáo Vũ Đình M về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo về tội danh, điều luật đã áp dụng như nội dung bản Cáo trạng. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 251; Điểm s Khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Vũ Đình M từ 30 tháng đến 36 tháng tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Căn cứ điểm b, c Khoản 1 Điều 47 của BLHS; điểm a,b Khoản 2 Điều 106 của BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 0,4 gam (không phẩy bốn gam) Methamphetamine còn lại sau khi đã trích mẫu gửi giám định; tiêu hủy 01 vỏ kẹo mầu đỏ; tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 50.000đ (Năm mươi nghìn đồng).

Về án phí: Căn cứ Điều 136 BLTTHS và Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Vũ Đình M cũng đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình: Bị cáo đã đi mua Methamphetamine về để sử dụng và bán lẻ kiếm lời, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đã thành khẩn thật thà khai báo, bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Nội dung vụ án: Tại phiên tòa bị cáo Vũ Đình M công nhận: Ngày 11 tháng 3 năm 2019, tại nhà ở của mình thuộc Tổ X, thị trấn M, huyện M M đã bán trái phép 01viên Methamphetamine cho 01 người đàn ông dân tộc thái không biết tên, tuổi địa chỉ thu lợi 50.000đ (năm mươi nghìn đồng). Ngoài ra Vũ Đình M còn tàng trữ 0,49 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng và bán lẻ kiếm lời.

Lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với các lời khai của bị cáo tại các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với các Biên bản lấy lời khai người chứng kiến, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; Bản tự khai và các biên bản ghi lời khai.

Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Vũ Đình M phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2]. Xét về tính chất, mức độ và hậu quả của tội phạm thấy rằng: Hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra thuộc trường hợp tội phạm rất nghiêm trọng, gây nguy hại lớn cho xã hội có mức cao nhất của khung hình phạt đến 7 năm tù, hành vi đó đã xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền của nhà nước trong lĩnh vực quản lý và sử dụng các chất ma túy, làm gia tăng các loại tội phạm và số lượng người nghiện trong xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn cần phải xử lý nghiêm nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

[3]. Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[4]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại huyện H, tỉnh Nam Định được bố mẹ cho đi học đến lớp 7/10 thì nghỉ học ở nhà lao động sản xuất. Đến năm 1979 cùng gia đình cắt khẩu lên xây dựng nông trường M và sinh sống ở thị trấn M, huyện M, tỉnh Điện Biên. Năm 1990 xây dựng gia đình với bà Khúc Thị N sinh năm 1966 và cắt khẩu về bản K, xã H, huyện M1, tỉnh Lai Châu sinh sống; đến năm 2000 cắt khẩu cùng gia đình sống tại Tổ X, thị trấn M, huyện M và có với nhau 02 người con. Năm 1998 bị Tòa án nhân dân huyện Mường Lay, tỉnh Lai Châu xử 24 tháng tù cho hưởng án treo, 36 tháng thử thách về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy; Năm 2011 bị Tòa án nhân dân huyện Mường Ảng xử phạt 12 tháng tù về tội:

Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đến nay đã được xóa án tích. Bị cáo là một người chồng, người cha trong gia đình đáng ra bị cáo phải làm gương cho vợ, con noi theo nhưng do thiếu ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lười lao động lại muốn có tiền một cách nhanh chóng đáp ứng cho nhu cầu cá nhân nên đã bất chấp pháp luật, đi vào con đường phạm tội. Bản thân là người nghiện chất ma túy nên có nhân thân không tốt; tuy nhiên, tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình. Nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo nên Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống, xã hội một thời gian để bị cáo sửa chữa tội lỗi của mình, sau này trở thành công dân có ích cho xã hội. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng quy định tại điều 52 BLHS.

Theo khoản 5 Điều 251 của BLHS quy định bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Song xét điều kiện hoàn cảnh của bị cáo không có khả năng thi hành, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đối với người mua Hồng phiến vào ngày 11/3/2019 là người đàn ông dân tộc Thái không biết tên, tuổi, địa chỉ ở đâu. Quá trình điều tra không có cơ sở để điều tra, xác minh làm rõ đối tượng nên HĐXX không đặt vấn đề xem xét.

Về nguồn gốc số Methamphetamine bị thu giữ, bị cáo khai mua của một người đàn ông dân tộc Thái không biết tên, địa chỉ ở đâu vào ngày 10/3/2019. Quá trình điều tra không có cơ sở để làm rõ đối tượng nên HĐXX không đặt vấn đề xem xét.

[5]. Về vật chứng: Hội đồng xét xử thấy rằng: 0,4g (không phẩy bảy gam) là số Methamphetamine còn lại sau khi gửi mẫu giám định cần tịch thu tiêu hủy; 01 vỏ kẹo màu đỏ không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy. Số tiền 50.000đ (năm mươi nghìn đồng) thu giữ của bị cáo thu lợi bất chính do bán Methamphetamine cần phải tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[6]. Về án phí: Bị cáo Vũ Đình M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7]. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[8]. Trong quá trình điều tra, truy tố thấy rằng: Các hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Vũ Đình M phạm tội: " Mua bán trái phép chất ma túy". Áp dụng: Khoản 1 Điều 251; Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt: Vũ Đình M 27 (Hai bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11 tháng 3 năm 2019.

2. Vật chứng: Áp dụng Khoản 1 Điều 47 của BLHS; Điểm a, b Khoản 2 Điều 106 của BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 0,4g (không phẩy bốn gam) Methamphetamine. Tịch thu tiêu hủy 1 vỏ kẹo ni lông màu đỏ. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 50.000đ (Năm mươi nghìn đồng) (Chi Cục thi hành án dân sự huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/6/2019).

3. Án phí: Điều 136 BLTTHS và Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Vũ Đình M phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 15/2019/HSST ngày 10/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:15/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Ảng - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;