TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA BÌNH, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 15/2019/HNGĐ-ST NGÀY 17/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN GIỮA ANH P VÀ CHỊ T
Ngày 17 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 62/2019/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 5 năm 2019 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2019/QĐXX-ST ngày 17/9/2019, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Lê Công P, sinh năm: 1962, có mặt;
Địa chỉ: Thôn Đ, xã B, huyện G, tỉnh Bắc Ninh.
2. Bị đơn: Chị Đỗ Thị T, sinh năm: 1971, có mặt; Địa chỉ:- SQ: Thôn T, xã C, huyện G, tỉnh Bắc Ninh - HKTT: Thôn Đ, xã Bình D, huyện G, tỉnh Bắc Ninh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
*. Trong đơn khởi kiện ngày 24 tháng 4 năm 2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là anh Lê Công P trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Đỗ Thị T kết hôn ngày 06/9/1989 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã B. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống với nhau ngay. Quá trình chung sống, thời gian đầu hòa thuận và hạnh phúc. Tuy nhiên, từ năm 2007 vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn, nguyên nhân do không hợp và bất đồng quan điểm sống. Đến năm 2009, vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng và sống ly thân. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng và không có khả năng đoàn tụ, nên anh vẫn giữ nguyên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn chị T.
- Về nuôi con chung: Vợ chồng có 02 con chung là các cháu Lê Công L, sinh năm 20/10/1990 và Lê Công B, sinh năm 10/9/1992. Hiện các cháu đều khỏe mạnh và đã trưởng thành.
Do các con chung đều khỏe mạnh và đã trưởng thành, nên không đề nghị Tòa án giải quyết khi ly hôn.
- Về chia tài sản: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết khi ly hôn.
*. Trong các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn là chị Đỗ Thị T thừa nhận trình bày của nguyên đơn về điều kiện và thời gian kết hôn, tình trạng hôn nhân và nguyên nhân mâu thuẫn. Tuy nhiên, bị đơn cho rằng tình cảm vợ chồng vẫn còn và vẫn có khả năng đoàn tụ nên chị không nhất trí ly hôn, mà đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng đoàn tụ. Nhưng, chị xác định chỉ có lời trình bày, chứ không đưa ra được phương án nào để vợ chồng đoàn tụ.
- Về nuôi con chung: Chị thừa nhận trình bày của nguyên đơn về con chung và điều kiện con chung và nay cũng không đề nghị Tòa án giải quyết khi ly hôn.
- Về chia tài sản: Chị cũng không yêu cầu Tòa án giải quyết khi ly hôn.
*. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về:
- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Đã tuân thủ đầy đủ và đúng theo các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
- Việc giải quyết vụ án: Đề nghị áp dụng các Điều 51, Điều 53 và Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình. Đề nghị:
+. Về hôn nhân: Cho anh P được ly hôn chị T.
+. Về nuôi con chung: Không đề cập giải quyết.
+. Về chia tài sản: Không đề cập giải quyết.
+. Về án phí: Buộc anh P phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định:
[1]. Về hôn nhân: Nhận thấy, quan hệ hôn nhân giữa anh Lê Công P và chị Đỗ Thị T được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và không vi phạm các điều kiện kết hôn, nên hợp pháp.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã tiến hành hoà giải để vợ chồng về đoàn tụ nhưng không có kết quả, anh P vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn; còn chị T tuy không nhất trí ly hôn nhưng chị không đưa ra được phương án hòa giải cụ thể nào để thuyết phục anh P về đoàn tụ, nên chứng tỏ đề nghị của chị không có cơ sở.
Xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa hai bên đã ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên cần chấp nhận cho anh P được ly hôn chị T là phù hợp với Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.
[2]. Về nuôi con chung: Xét thấy, anh P và chị T có 02 con chung là Linh và Ban đều khỏe mạnh và đã trưởng thành, nên hai bên không đề nghị Tòa án giải quyết khi ly hôn. Do đó, không đề cập xem xét.
[3]. Về chia tài sản: Do các bên không yêu cầu, nên không đề cập giải quyết. Tuy nhiên, sau này các bên vẫn được quyền yêu cầu bằng vụ việc dân sự khác theo quy định của pháp luật.
[4]. Về án phí: Anh P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[5]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 51, Điều 53 và Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.
1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Lê Công P và chị Đỗ Thị T.
2. Về nuôi con chung: Không đề cập giải quyết.
3. Về chia tài sản: Không đề cập giải quyết.
*. Về án phí: Căn cứ vào Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc anh P phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số AA/2015/0001582 ngày 16/5/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Gia Bình; anh P đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.
*. Về quyền kháng cáo: Báo cho đương sự biết quyền được kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án 15/2019/HNGĐ-ST ngày 17/10/2019 về tranh chấp ly hôn giữa anh P và chị T
Số hiệu: | 15/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Gia Bình - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 17/10/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về