Bản án 15/2019/HNGĐ-ST ngày 09/04/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 15/2019/HNGĐ-ST NGÀY 09/04/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 09 tháng 4 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã T tiến hành phiên tòa sơ thẩm công khai xét xử vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 12/2019/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 01 năm 2019 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 3 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị Đ, sinh năm 1986; địa chỉ thường trú: Ấp L, xã L, huyện C, tỉnh An Giang; tạm trú: Nhà trọ Phạm Thị Q thuộc khu phố Ô, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương; có đơn xin giải quyết vắng mặt.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1989; địa chỉ thường trú: Ấp L, xã L, huyện C, tỉnh An Giang; tạm trú: Nhà trọ Phạm Thị Q thuộc khu phố Ô, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà Lê Thị Đ trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Đ và ông Nguyễn Thanh T có thời gian tìm hiểu nhau thì tiến tới hôn nhân, vợ chồng có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện C, tỉnh An Giang và được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 15, quyển số 01/2015 ngày 24-02-2015. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng đến khoảng năm 2018 vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do ông T không quan tâm đến gia đình, con cái, không có trách nhiệm trong gia đình dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi vả. Vì vậy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không thể hàn gắn được, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà Đ yêu cầu được ly hôn với ông T.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Phước Th, sinh ngày02/5/2008. Khi ly hôn bà Đ đồng ý giao con cho ông T được trực tiếp nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi  con  chung: Bà  Đ đồng  ý  cấp dưỡng  nuôi  con 1.000.000 đồng/tháng cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung và vay nợ chung: Bà Đ tự nguyện không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Vì lý do bận công việc, không có thời gian tham gia tố tụng nên bà Đ có đơn đề nghị Toà án xét xử vụ án vắng mặt.

Bị đơn ông Nguyễn Thanh T đã được Tòa án nhân dân thị xã T triệu tập tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng ông T vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng.

Theo kết quả xác minh tại Ủy ban nhân dân phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương về mâu thuẫn vợ chồng của bà Đ và ông T thì chính quyền địa phương không rõ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm như sau:

- Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân thị xã T thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền. Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán đã tiến hành đầy đủ các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Đối với việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng các đương sự đã thực hiện đúng quy định. Đại diện Viện kiểm sát không có yêu cầu và kiến nghị để khắc phục vi phạm tố tụng.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị Đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng: Nguyên đơn bà Lê Thị Đ có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn ông Nguyễn Thanh T được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành thủ tục xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 227 và 238 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Đ và ông Nguyễn Thanh T có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện C, tỉnh An Giang theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 15, quyển số 01/2015 ngày 24-02-2015, là hôn nhân hợp pháp.

Bà Lê Thị Đ xác định từ năm 2018 đến nay vợ chồng không còn sống chung và không còn tình cảm nên yêu cầu được ly hôn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo bà Đ là do ông T không quan tâm đến gia đình, con cái, không có trách nhiệm trong gia đình dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi vả, từ năm 2018 đến nay vợ chồng đã sống ly thân, hiện tại vợ chồng không đưa ra được biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Quá trình tố tụng tại Tòa án, ông Nguyễn Thanh T đã được Tòa án nhân dân thị xã T tống đạt hợp lệ giấy triệu tập, kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ nhưng ông T không đến Tòa án cho thấy ông T không có thiện chí hòa giải để vợ chồng đoàn tụ và ông T đã từ bỏ quyền chứng minh, phản bác của mình. Tại Tòa án, bà Đ xác định không còn tình cảm vợ chồng với ông T, không còn muốn chung sống với ông T. Do đó, có căn cứ xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa bà Đ và ông T là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn không đạt được, việc bà Đ yêu cầu ly hôn với ông T là có cơ sở chấp nhận.

 [2] Về con chung: Bà Đ đồng ý giao con chung tên Nguyễn Phước Th, sinh ngày 02/5/2008 cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy, việc nuôi con chung là nghĩa vụ cũng đồng thời là quyền lợi của vợ chồng. Ông T vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên, qua lời trình bày của bà Đ có căn cứ xác định hiện tại con chung Nguyễn Phước Th đang sống cùng ông T, ông T đang trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung. Quá trình tố tụng, Tòa án không có điều kiện để lấy lời khai của cháu Th tuy nhiên tại tòa, nguyên đơn không tranh chấp quyền nuôi con với ông T mà đồng ý giao con chung cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng. Đây là ý chí tự nguyện của nguyên đơn nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

 [3] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà Đ tự nguyện cấp dưỡng nuôi con 1.000.000 đồng/tháng cho đến khi con đủ 18 tuổi nên Hội đồng xét xử ghi nhận ý chí tự nguyện của bà Đ.

 [4] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

 [5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp.

 [6] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Lê Thị Đ phải chịu theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 266, Điều 269, Điều 271, Điều 273 và Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị Đ về việc tranh chấp ly hôn và nuôi con với bị đơn ông Nguyễn Thanh T như sau:

- Về hôn nhân: Bà Lê Thị Đ được ly hôn với ông Nguyễn Thanh T.

- Về con chung: Ghi nhận ý chí tự nguyện của bà Đ về việc giao con chung tên Nguyễn Phước Th, sinh ngày 02/5/2008 cho ông Nguyễn Thanh T được trực tiếp nuôi dưỡng.

Bà Lê Thị Đ và ông Nguyễn Thanh T đều có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người đang trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

- Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà Lê Thị Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung Nguyễn Phước Th 1.000.000 đồng/tháng cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án nộp đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa thanh toán xong thì còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất do Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm thanh toán, tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 cho đến khi thi hành án xong.

- Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Lê Thị Đ phải chịu 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0014651 ngày 25-12-2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T, tỉnh Bình Dương.

3. Về án phí cấp dưỡng nuôi con: Bà Lê Thị Đ phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

4. Các đương sự vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

274
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 15/2019/HNGĐ-ST ngày 09/04/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:15/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;