Bản án 15/2018/HS-ST ngày 09/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐĂK HÀ, TỈNH KON TUM

BẢN ÁN 15/2018/HS-ST NGÀY 09/05/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 5 năm 2018 tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện ĐH, tỉnh K T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 15/2018/TLST-HS ngày 28 tháng 3 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:12/2018/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 4 năm 2018 đối với bị cáo: Đinh Tiến H (Tên gọi khác: Không), sinh ngày 13 tháng 11 năm 1988 tại huyện C Ph, tỉnh H B; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: xóm M 1, xã B Th, huyện C Ph, tỉnh H B; Số CMND 113309596; Nghề nghiệp: Không ổn định; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Thế H, sinh năm 1958 và bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1961, Cùng trú tại: xóm M 1, xã B Th, huyện C Ph, tỉnh H B;Gia đình có 03 chị em, bị cáo là con út; Có vợ là chị Triệu Thị B, sinh năm 1990, trú tại xóm M 1, xã B Th, huyện C Ph, tỉnh H B; Có 01 con, sinh năm 2012. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/12/2017 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Đinh Văn D, sinh năm 1993; Trú tại: Thôn 5, xã H M, huyện Đ H, tỉnh K T. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

+ Bà Phạm Thị B, sinh năm 1955; Trú tại: Tổ dân phố 2A, thị trấn Đ H, huyện Đ H, tỉnh K T. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 17/12/2017, Đinh Tiến H bắt taxi từ huyện C Ph đến thành phố Hòa Bình để mua ma túy về sử dụng. Khi đến một địa điểm thuộc phường Đ T, thành phố H B, H tìm và hỏi mua ma túy của một người đàn ông (chưa xác định rõ tên, tuổi, địa chỉ) một số lượng ma túy với giá 3.000.000 đồng, người đàn ông này thống nhất và đưa một cục ma túy đựng trong bì ni lông màu hồng, H cầm cục ma túy bỏ vào túi quần bên phải để cất giấu. Mua ma túy xong, H gặp một người đàn ông khác (chưa xác định rõ tên, tuổi, địa chỉ) gần địa điểm mua ma túy và mua một cân tiểu ly với giá 250.000 đồng để cân lại số ma túy vừa mua được. Sau đó, H bắt xe đi vào huyện Đ H, tỉnh K T với mục đích trốn đi cai nghiện và tìm việc làm. Đến khoảng 12 giờ ngày 19/12/2017, H đến địa bàn huyện Đ H, rồi gọi điện thoại cho bạn là anh Đinh Văn D và hẹn gặp tại nhà nghỉ T T (Thuộc Tổ dân phố 2A, thị trấn Đ H). Khi gặp H mượn chứng minh nhân dân của D để thuê nghỉ trọ tại phòng số 08, nhà nghỉ T T vì Hoạt không mang theogiấy tờ tùy thân. Trong thời gian ở nhà nghỉ, H thường lén lút lấy ma túy ra sử dụng khoảng 3 đến 4 lần trong một ngày; Số ma túy còn lại, H bọc trong một bì ni lông màu hồng. Đến khoảng 16 giờ ngày 22/12/2017, khi nghe tiếng gọi của của bà Phạm Thị B (chủ nhà nghỉ T T), H đã giấu cục ma túy vào một ổ điện âm tường tại góc nhà, giáp chiếc bàn và giường ngủ trong phòng nghỉ số 08 rồi ra mở cửa phòng; Cùng lúc này, lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về hình sự, kinh tế và ma túy Công an huyện Đ H, Công an thị trấn và chính quyền địa phương kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang Đinh Tiến H cất giấu một cục màu trắng đục (không rõ hình dạng, kích thước) được gói trong bọc ni lông màu hồng, nghi là ma túy loại heroin ngay góc tường, giáp chiếc bàn và giường tại phòng nghỉ số 08. Cơ quan điều tra tiến hành lập biên bản niêm phong bọc ni lông màu hồng nghi là ma túy loại heroin.

Theo bản kết luận giám định số 20/GĐTP-2018 ngày 25/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh K T xác định: Mẫu bột gửi giám định là ma túy, có trọng lượng: 4,2068 gam, là loại heroin.

Đối với người đàn ông bán ma túy, loại heroin cho Đinh Tiến H vào ngày 17/12/2017, quá trình điều tra không xác định được họ tên, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để mở rộng điều tra.

Tại bản cáo trạng số 10/CT-VKSĐH-HS ngày 27/3/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ H, tỉnh K T truy tố bị cáo Đinh Tiến H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Tại phiên tòa, đại diện viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận; Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thấy rằng: Hành vi của bị cáo Đinh Tiến H đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật hình sự năm 1999 và áp dụng quy định có lợi cho người phạm tội, theo quy định tại điểm b khoản 1 điều 2; điểm h, i khoản 2 điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; Khoản 3 Điều 7; điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để áp dụng khung hình phạt nhẹ hơn có lợi cho người phạm tội.
Xử phạt: Bị cáo Đinh Tiến H từ 03(ba) đến 04 (bốn) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản riêng nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền.

Về xử lý vật chứng: đề nghị áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ Luật Tố tụng hình sự: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 cân tiểu ly và 4,1041 gam ma túy, loại heroin còn lại sau giám định, bao gói mẫu. Đối với 01 chiếc điện thoại di động Nokia, có vỏ màu cam và 01 chiếc điện thoại di động SamSung màu đen, bị cáo H không sử dụng làm công cụ, phương tiện phạm tội nên đề nghị trả lại cho Đinh Tiến H.
Về trách nhiệm dân sự: Ngày 22/01/2018 anh Đinh Văn D tự nguyện thanh toán tiền thuê phòng 08 tại nhà nghỉ T T cho bà Phạm Thị B với số tiền 450.000 đồng. Bà B không yêu cầu gì thêm và anh D không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền này nên đề nghị HĐXX không xem xét trách nhiệm dân sự.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật .

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáothống nhất với nội dung cáo trạng đã truy tố và phát biểu luận tội của Viện kiểm sát tại phiên tòa, không có tranh luận gì, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, các quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện Đ H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ H trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Tòa án nhân dân huyện Đ H đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tôi đúng như hành vi mà bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với bản ảnh hiện trường, biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, bản kết luận giám định, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để khẳng định:

Do bản thân bị cáo Đinh Tiến H nghiện ma tuý, nên vào ngày 17/12/2017, bị cáo bắt taxi từ huyện C Ph đến thành phố H B để mua ma túy từ một người đàn ông (chưa xác định được tên, địa chỉ) về sử dụng với giá 3.000.000 đồng. Sau đó, bị cáo tìm mua một cân tiểu ly với giá 250.000 đồng, rồi bắt xe đi vào huyện Đ H, tỉnh K T với mục đích trốn không phải đi cai nghiện. Khi đến huyện Đ H, bị cáo thuê phòng tại nhà nghỉ T T. Trong thời gian ở nhà nghỉ, bị cáo thường lén lút lấy ma túy ra sử dụng; Đến ngày 22/12/2017 thì bị lực lượng Cơ quan điều tra Công an huyện Đ H bắt quả tang bị cáo Đinh Tiến H tàng trữ trái phép một gói heroin, có khối lượng 4,2068 gam để sử dụng cho bản thân.

Hành vi trên của bị cáo Đinh Tiến H đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại khoản 1 điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Do vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ H, tỉnh K T đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, tang vật thu giữ trong vụ án, Kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật nghiêm cấm, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về quản lý chất ma túy, ảnh hưởng đến trật tự trị an xã hội, gây xôn xao dư luận trong quần chúng nhân dân, làm gia tăng tội phạm về ma túy và cũng là nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và tàng trữ trái phép lượng chất ma túy là 4,2068 gam, loại heroin xét thấy: Cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung. Nhưng xét thấy thực tế, trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; Bố đẻ của bị cáo được Bộ quốc phòng tặng kỷ niệm chương vì có nhiều cống hiến xây dựng lực lượng vũ trang quần chúng; Bị cáo không có tình tiết tăng nặng theo quy định tại Điều 48 BLHS năm 1999. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của BLHS năm 1999 cần áp dụng để  giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Hơn thế nữa, khung hình phạt về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy được quy định tại khoản 1 điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 so với điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) thì thấy rằng: Khung hình phạt quy định trong Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) nhẹ hơn so với khung hình phạt quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999. Cụ thể: Khoản 1 điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”. Còn điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) quy định: “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:.... c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam…”. Cho nên cần căn cứ điểm b khoản 1 điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội và khoản 3 điều 7, điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) áp dụng khung hình phạt nhẹ hơn có lợi cho người phạm tội để bị cáo thấy được lượng khoan hồng của pháp luật mà cố gắng cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Đối với người đàn ông bán cân tiểu ly và người đàn ông bán ma túy cho bị cáo Đinh Tiến H hiện chưa xác định được họ tên, địa chỉ nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ H tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, có nơi cư trú và nghề nghiệp không ổn định, gia đình bị cáo gặp nhiều khó khăn và là người nghiện chất ma túy nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[6] Về tang vật vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Khoản 1, điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015.
01 (một) cân tiểu ly có mặt cân bằng kim loại, kích thước 9,5cmx 9,5cm, mặt sau bằng nhựa màu bạc, trên mặt sau của cân có in 500g ± 0,01g; 2 x AAA Batteries; NOT LEGAL FORTRADE; MADE IN CHINA; CE; OPEN không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
- Chất rắn dạng cục bột được đựng trong túi ni lông, có trọng lượng đã trừ bì là 4,1041 gam ma túy, loại heroin còn lại sau giám định là chất cấm lưu hành nên cần phải tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 chiếc điện thoại di động Nokia, có vỏ màu cam và 01 chiếc điện thoại di động SamSung màu đen, bị cáo không sử dụng vào làm phương tiện phạm tội nên căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ Luật Tố tụng hình sự để trả lại tài sản cho Đinh Tiến H.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Đinh Văn D đã tự nguyện thanh toán số tiền 450.000 đồng thuê phòng 08 tại nhà nghỉ TT vào ngày 22/01/2018 cho bà Phạm Thị B. Bà B không yêu cầu gì thêm và anh D không yêu cầu bị cáo H trả lại số tiền này nên HĐXX không xem xét trách nhiệm dân sự.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí theo
quy định pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo bản án: Bị  cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật hình sự năm 1999; Điểm b khoản 1 điều 2; điểm h, i khoản 2 điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; Khoản 3 điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tuyên bố: Bị cáo Đinh Tiến H phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt: bị cáo Đinh Tiến H: 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 22/12/2017.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Khoản 1, điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) chiếc cân tiểu ly; Một phong bì bên trong có túi ni lông đựng 4,1041 gam ma túy, loại heroin còn lại sau giám định và 01 bì ni lông màu hồng. Phong bì được niêm phong có đóng dấu của phòng Kỹ thuật hình sự và chữ ký của giám định viên- Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh K T.

- Trả lại cho bị cáo 01 (một) chiếc điện thoại di động Nokia, có vỏ màu cam và 01 (một) chiếc điện thoại di động SamSung màu đen, loại GT-S5360. (Các vật chứng có đặc điểm như trong Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ Hvà Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ H, tỉnh K T ngày 02/4/2018).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Khoản 1 Điều 21; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Đinh Tiến H phải nộp 200.000 đ (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Căn cứ Điều 331 và 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (09/5/2018) bị cáo có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu xét xử theo trình tự phúc thẩm. Đối với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

302
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 15/2018/HS-ST ngày 09/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:15/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Hà - Kon Tum
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;