TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI XUÂN, TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 15/2018/HSST NGÀY 07/09/2018 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Vào hồi 8 giờ 00 phút, ngày 07 tháng 9 năm 2018, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 15/2018/HSST ngày 09/8/2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2018/HSST ngày 24 tháng 8 năm 2018 đối với:
Bị cáo: Phan Tuấn A - Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không Sinh ngày 10 tháng 10 năm 1997 tại: Xuân Yên, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Nơi cư trú: Thôn Yên T, Xuân Y, Nghi Xuân, Hà Tĩnh.
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Lớp 9/12
Con ông: Phan Văn H - Đã chết
Con bà: Phan Thị T - SN 1970
Vợ con: Chưa có.
Tiền án: Ngày 16/12/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 12 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, chấp hành xong hình phạt ngày 11/10/2017.
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 20/6/2018 đến nay, có mặt tại phiên tòa.
Người bị hại:
- Nguyễn H – Sinh năm 1959, Nghề nghiệp:
Nơi cư trú: Thôn T, Xuân T, Nghi Xuân, Hà Tĩnh.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Nguyễn Văn H1 – Sinh năm 1995; Nghề nghiệp:Tự do (Vắng mặt)
Nơi cư trú: Thôn T, Xuân T, Nghi Xuân, Hà Tĩnh.
- Trần Văn T – Sinh năm 1997; Nghề nghiệp:Tự do (Vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn Y, Xuân Y, Nghi Xuân, Hà Tĩnh.
- Nguyễn Hải N – Sinh năm 1989; Nghề nghiệp: Tự do (Vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn Thành V, Xuân T, Nghi Xuân, Hà Tĩnh.
- Nguyễn Văn P – Sinh năm 1992; Nghề nghiệp:Tự do (Vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn A, Cổ Đ, Nghi Xuân, Hà Tĩnh.
- Nguyễn Viết T – Xinh năm 1993; Nghề nghiệp: Cầm đồ (Vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn Phong G, Tiên Đ, Nghi Xuân, Hà Tĩnh.
- Đậu Minh L – Sinh năm 1991; Nghề nghiệp: Cầm đồ (Vắng mặt)
Nơi cư trú: Thôn Thanh V, Xuân T, Nghi Xuân, Hà Tĩnh.
- Phan Thị T – Sinh năm 1970; Nghề nghiệp: Tự do (Có mặt) Nơi cư trú: Thôn Yên T, Xuân Y, Nghi Xuân, Hà Tĩnh.
NHẬN THẤY
Bị cáo Phan Tuấn A bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Xuân truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Khoảng 16 giờ không rõ ngày (đầu tháng) tháng 3 năm 2018, Nguyễn Văn H1 điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Sirius màu vàng đen BKS 38N1- 078.73 đăng ký mang tên bố Nguyễn H đến nhà bị cáo chơi, khi đến có mặt Trần Văn T tại đây. Bị cáo liền nảy sinh ý định mượn xe đem đi cầm cắm lấy tiền trả nợ và tiêu xài cá nhân. Bị cáo đi ra sân gọi điện thoại choNguyễn Hải N nhờ cắm cho chiếc xe của đứa bạn lấy 3.000.000 đồng và được N đồng ý. Sau khi nhờ được N bị cáo nói với H1: “Cho tau mượn xe đi công việc tí” được H1 đồng ý nên bị cáo nói riêng với T: “Đưa xe đến nhờ anh N đem đi cắm lấy 3.000.000 đồng về hộ tau” rồi nói H1 đưa chìa khóa xe cho T để T đi lo công việc giúp bị cáo. T không biết bị cáo và H1 đã thỏa thuận như thế nào, chỉ làm theo lời bị cáo và không hỏi gì thêm. Sau khi đưa xe máy của H1 đến gặp N thì N, T và Nguyễn Văn P (bạn của N) cùng đem xe đến cầm cắm cho anh Nguyễn Viết T, T nhận lấy 3.000.000 đồng từ N đem về đưa lại cho bị cáo. H1 đợi đến chiều tối không thấy T đưa xe về trả nên hỏi và bị cáo nói: “xe mi tau đem đi cắm rồi, tối hoặc mai tau chuộc về cho”. Những ngày sau H1 liên tục gọi điện thoại giục bị cáo chuộc xe nhưng bị cáo không thực hiện vì tiền cắm xe đã tiêu hết. Khoảng một tuần sau khi xe của H1 bị cầm cắm, Nguyễn Văn P do không có phương tiện đi lại đã đến gặp Thông xin chuộc lại chiếc xe của H1 với giá 5.000.000 đồng về để sử dụng. Sử dụng được ba ngày, do cần tiền P lại đem chiếc xe đến cầm cắm cho Đậu Minh L chủ hiệu cầm đồ ở Xuân Thành lấy 5.500.000 đồng.
Ngày 23/4/2018 Nguyễn Văn H1 đã viết đơn tố cáo hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” của bị cáo. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh và thu giữ chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA Sirius BKS 38N1- 07873 từ Đậu Minh L về trả lại cho Nguyễn Văn H1, hiện người bị hại không yêu cầu gì và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Tại kết luận định giá tài sản trong tố tụng huyện Nghi Xuân số 06 ngày 15/6/2018 kết luận: Chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA Sirius BKS 38N1- 07873 đã qua sử dụng có trị giá 14.017.000 đồng (Mười bốn triệu không trăm mười bảy ngàn đồng).
Ngày 21/7/2018, bị cáo đã tác động nhờ mẹ đẻ là Phan Thị T nộp cho cơ quan điều tra số tiền 3.000.000 đồng do phạm tội mà có. Còn chiếc điện thoại bị cáo dùng để gọi điện trao đổi nhờ Nguyễn Hải N cầm cắm hộ xe không thu hồi được.
Vật chứng vụ án:
- Chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA Sirius BKS 38N1- 07873 đã qua sử dụng thu giữ từ Đậu Minh L hiện đã trả lại cho Nguyễn Văn H1.
- 3.000.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam do bà Phan Thị T giao nộp hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án huyện Nghi Xuân.
Tại phiên tòa:
Bị cáo khai nhận đầy đủ hành vi phạm tội của mình, lời khai của người liên quan phù hợp lời khai của bị cáo và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và không có yêu cầu gì.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Xuân giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng số 14/CT – VKSNX ngày 08/8/2018 và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phan Tuấn A từ 12 – 15 tháng tù.
Vật chứng vụ án: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu sung quỹ Nhà nước 3.000.000 đồng.
Về án phí : Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Nghi Xuân; Kiểm sát viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Nghi Xuân, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đều khai nhận tội đúng như nội dung của bản cáo trạng. Xét lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai củangười bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Từ đó, có đầy đủ cơ sở để kết luận: Bị cáo muốn có tài sản để cầm cắm nên mượn xe máy nhãn hiệu YAMAHA Sirius BKS 38N1- 078.73 của Nguyễn Văn H1 để sử dụng nhưng đem đi cầm cắm lấy 3.000.000 đồng để tiêu xài cá nhân hết.
Hành vi của Phan Tuấn A đã phạm vào tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 174 Bộ luật hình sự:
“Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng …, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Bị cáo đã có ý thức chiếm đoạt tài sản nên đã dùng hành vi, thủ đoạn gian dối “mượn xe sử dụng” làm cho chủ sở hữu, người quản lý tài sản tin nhầm giao tài sản cho người phạm tội để chiếm đoạt tài sản đó.
Bởi lẽ, khi so sánh tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” thì người phạm tội đều có hành vi, thủ đoạn gian đối nhằm chiếm đoạt tài sản, nhưng dấu hiệu để phân biệt là thời điểm người phạm tội sử dụng hành vi, thủ đoạn gian dối. Ở tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” hành vi này được người phạm tội thực hiện trước khi chủ sở hữu giao tài sản cho người phạm tội, còn ở tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” hành vi, thủ đoạn gian dối được người phạm tội sử dụng sau khi chủ sở hữu giao tài sản. Vì vậy, căn cứ hành vi của bị cáo, đối chiếu quy định của pháp luật thì Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội danh như trên là hoàn toàn đúng người, đúng tội.
Đánh giá các tình tiết định khung hình phạt:
Tình tiết giảm nhẹ: “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa,… khắc phục hậu quả”, “Người phạm tội thành khẩn khai báo” người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Tình tiết tăng nặng: “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự.
Căn cứ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo, HĐXX cho rằng bị cáo đang tuổi trưởng thành nhưng thiếu ý thức rèn luyện, trong khi gia đình thuộc hộ nghèo nhiều năm nhưng không chịu lao động kiếm sống, đã phạm tội chưa được xóa án nay lại phạm tội mới thể hiện sự coi thường pháp luật nên cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục, phòng ngừa chung.
Đại diện Viện kiểm sát đề nghị điều luật áp dụng, mức hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
Trong vụ án còn có Trần Văn T, Nguyễn Hải N, Nguyễn Viết T, Đậu Minh L tham gia việc cầm cắm tài sản do phạm tội mà có nhưng chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm HĐXX miễn xét.
[3]. Vật chứng và biện pháp tư pháp: Xe máy nhãn hiệu YAMAHA Sirius BKS 38N1- 078.73 đã trả chủ sở hữu HĐXX miễn xét. Số tiền 3.000.000 đồng là số tiền do phạm tội mà có nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.
[4]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
[1]. Căn cứ khoản 1 điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, khoản 1 Điều 53, điểm b khoản 1 Điều 47 BLHS; Điểm b khoản 2 điều 106, Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 điều 3, khoản 1 điều 6, khoản 1 điều 21 và điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
[2]. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phan Tuấn A phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
[3]. Về hình phạt:
Xử phạt Phan Tuấn A 12 tháng tù tính từ ngày 20/6/2018.
[4]. Xử lý vật chứng:
Tịch thu sung quỹ Nhà nước 3.000.000 đồng theo Biên bản giao nhận và bàn giao tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nghi Xuân ngày 03/8/2018.
[5]. Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo và người tham gia tố tụng có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người ham gia tố tụng vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ.
Bản án 15/2018/HSST ngày 07/09/2018 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 15/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nghi Xuân - Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/09/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về