Bản án 15/2018/HNGĐ-ST ngày 30/03/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN PHƯỚC, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 15/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/03/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 30 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 110/2017/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 11 năm 2017 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 02 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Quỳnh T, sinh năm 1993. Địa chỉ: Thôn A, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Lê Văn T, sinh năm 1985.

Địa chỉ: Thôn 11, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 16/11/2017, bản tự khai ngày 05/12/2017 và biên bản hòa giải ngày 23/02/2018 cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Quỳnh T trình bày: Chị và anh T tự nguyện tìm hiểu và xác lập quan hệ hôn nhân có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam vào năm 2015. Trong quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn do tính cách không hợp nhau, bất đồng quan điểm, anh T không lo làm ăn, không có trách nhiệm với vợ con dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn. Hiện nay chị cảm thấy không thể tiếp tục chung sống với anh T được nữa nên chị yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Tiên Phước giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị và anh T có một người con chung cháu Lê Thị D, sinh ngày 11/10/2015. Sau khi ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu D cho đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi vì hiện nay cháu D còn nhỏ chưa đủ 36 tháng tuổi và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản ghi lời khai, biên bản hòa giải ngày 23/02/2018 bị đơn anh Lê Văn T trình bày: Anh và chị T kết hôn vào năm 2015, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam, hiện nay vợ chồng có một người con chung là cháu Lê Thị D, sinh ngày 11/10/2015 như chị T đã khai. Trong quá trình chung sống, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, thường xuyên cãi vã nhau. Hiện nay chị T có yêu cầu ly hôn anh đồng ý ly hôn với chị T vì anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa. Tuy nhiên về con chung anh cũng có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu D vì anh xét thấy chị T thường xuyên đi làm không có thời gian chăm sóc con chung. Nếu giao con cho anh nuôi dưỡng thì anh không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Các đương sự đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Quỳnh T đối với anh Lê Văn T. Về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu Lê Thị D, sinh ngày 11/10/2015 cho chị Nguyễn Thị Quỳnh T trực tiếp nuôi dưỡng vì hiện nay cháu D chưa đủ 36 tháng tuổi để đảm bảo quyền lợi của cháu D. Ngoài ra, các đương sự không có yêu cầu cấp dưỡng và không yêu cầu giải quyết về tài sản chung nên không đề nghị xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Lê Văn T đã nhận được Thông báo thụ lý vụ án của Tòa án và đã cung cấp lời khai tại Tòa án, đồng thời cũng đã tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 23/02/2018. Tại phiên tòa hôm nay anh Lê Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt. Vì vậy Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Quỳnh T và anh Lê Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam vào ngày 13/3/2015. Việc kết hôn giữa chị T và anh T là hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký theo đúng quy định của pháp luật nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Qua xác minh tại địa phương cũng như sự thừa nhận của chị T và anh T thì trong quá trình chung sống, vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn, bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi vã với nhau. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành hòa giải để vợ chồng đoàn tụ về chung sống với nhau cùng nuôi dạy con cái, xây dựng hạnh phúc gia đình nhưng không thành. Xét thấy, hiện nay tình cảm vợ chồng chị T, anh T không còn nữa, mục đích hôn nhân không đạt được và cả hai vợ chồng cùng thuận tình ly hôn nên Tòa án cần phải công nhận việc thuận tình ly hôn của chị T, anh T.

[3] Về con chung: Chị T và anh T có 01 người con chung là cháu Lê Thị D, sinh ngày 11/10/2015, trong quá trình giải quyết vụ án các bên không thỏa thuận được về việc trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục cháu D mà cả hai bên đều có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu D. Xét thấy do cháu D chưa đủ 36 tháng tuổi và từ trước đến nay cháu D đều do chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Do vậy, để đảm bảo quyền lợi, cuộc sống ổn định của cháu D và phù hợp với quy định tại Khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình Tòa án xét thấy cần phải giao cháu D cho chị Nguyễn Thị Quỳnh T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Dđủ 18 tuổi. Do chị T có đủ điều kiện để nuôi con và không yêu cầu cấp dưỡng nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án”, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0018545 ngày 16/11/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Phước.

[6] Từ những nhận định nêu trên, xét thấy ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Phước tại phiên tòa là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật nên cần phải chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 55, 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án”. Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Quỳnh T đối với anh Lê Văn T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Quỳnh T và anh Lê Văn T.

2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị Quỳnh T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Lê Thị D, sinh ngày 11/10/2015 cho đến khi đủ 18 tuổi. Anh Lê Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh Lê Văn T có quyền thăm nom con chung mà mình không trực tiếp nuôi dưỡng, không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Quỳnh T phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn và được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số 0018545 ngày 16/11/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Phước. Chị T đã nộp đủ án phí.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (30/3/2018). Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 15/2018/HNGĐ-ST ngày 30/03/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:15/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Phước - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;