TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 15/2018/HNGĐ-ST NGÀY 27/03/2018 VỀ THAY ĐỔI NUÔI CON CHUNG
Ngày 27 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, thành phố Hà nội xét xử công khai vụ án thụ lý số: 33/2018/ LHST ngày 12 tháng 01 năm 2018 về việc “Thay đổi người trực tiếp nuôi con chung sau ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2018/QĐST - HNGĐ ngày 14 tháng 3 năm 2018 giữa các đương sự.
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị A, sinh năm 1992; HKTT: thôn X, xã Y, huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội;
2.Bị đơn: Anh Nguyễn Việt B, sinh năm 1986;
HKTT: thôn P, xã Y, huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội; ( Chị A, anh B có mặt tại phiên toà )
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và biên bản hoà giải chị Nguyễn Thị A trình bày: Chị và anh Nguyễn Việt B kết hôn với nhau tại Ủy ban nhân dân xã Y,
huyện Ba Vì, TP. Hà Nội vào năm 2015. Trong thời gian chung sống với nhau, hai vợ chồng chị có 01 con chung là cháu Nguyễn Việt M sinh ngày 28/8/2016. Tháng 10 năm 2017, vợ chồng anh chị làm thủ tục ly hôn lại Tòa án nhân dân huyện Ba Vì. Tòa án nhân dân huyện Ba Vì đã ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 257/2017/QĐST-HNGĐ ngày 02 tháng 11 năm 2017 của Toà án nhân dân huyện Ba Vì giải quyết cho chị và
anh Nguyễn Việt B được ly hôn. Về con chung: giao cháu Nguyễn Việt M cho anh Nguyễn Việt B trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành hoặc đến khi có quyết định thay đổi khác. Về cấp dưỡng mỗi tháng tôi trợ cấp nuôi con chung cho anh B là 1.000.000đ/ tháng. Tài sản chung, riêng, công nợ: không có.
Đến giữa tháng 12/2017 bà Nguyễn Thị L là mẹ đẻ anh B có đón cháu Nguyễn Việt M về nhà nuôi dưỡng. Từ đó đến nay cháu M ở với bà nội. Tôi nhiều lần đến thăm cháu nhưng bà L không cho tôi thăm con tôi. Hiện anh Nguyễn Việt B đang làm việc tại khu công nghiệp Q, thành phố V, tỉnh Phú Thọ, không trực tiếp nuôi con. Hiện cháu M còn nhỏ mới được 18 tháng tuổi cần phải được sự chăm sóc của mẹ. Bà nội cháu M còn phải chăm nom một số cháu khác nên không đảm bảo được việc chăm nom cho cháu. Mặt khác chị A hiện làm cho Công ty Cổ phần bánh kẹo Hải Hà, có thu nhâp ổn định với mức 7 đến 8 triệu đồng một tháng nên đủ điều kiện nuôi con. Vậy nên chị đề nghị Tòa án nhân dân huyện Ba Vì giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Việt M.
Theo bản tự khai, biên bản lấy lời khai và Biên bản hoà giải anh Nguyễn Việt B trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị A kết hôn với nhau năm 2015 tại UBND xã Y, huyện Ba Vì qua tự do tìm hiểu theo quy định của pháp luật. Trong thời gian chung sống, hai vợ chồng có sinh được 01 con chung là cháu Nguyễn Việt M sinh ngày 28/8/2016. Tháng 10/2017 anh và chị A làm thủ tục ly hôn tại Tòa án nhân dân huyện Ba Vì. Tại Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thoản thuận của các đương sự số 257/QĐST-HNGĐ ngày 02/11/2017, Tòa án nhân dân huyện Ba Vì đã giải quyết cho anh ly hôn với chị A và giao cháu Nguyễn Việt M cho anh trực tiếp nuôi dưỡng.
Đầu tháng 12/2017 chị Nguyễn Thị A đã chủ động giao con cho anh nuôi. Hiện cháu đang ở với anh và ông bà nội. Hiện anh đang làm ở thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Khi anh đi làm thì cháu M được ông bà nội chăm sóc.
Nay chị A làm đơn yêu cầu thay đuổi người trực tiếp nuôi con chung, yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu M, anh không đồng ý giao con cho chị A nuôi dưỡng bởi cho rằng chị A không bình thường về tâm lý, nên không yên tâm khi giao con cho chị A trực tiếp nuôi dưỡng.
Tòa án đã tiến hành xác minh tại địa phương. Tại Biên bản xác minh ngày 07/3/2018, chính quyền địa phương cho biết: Chị Nguyễn Thị A có kết hôn với anh Nguyễn Việt B tại UBND xã Y và đã tiến hành ly hôn tại Tòa án nhân dân huyện Ba Vì vào tháng 11/2017. Sau khi ly hôn, cháu Nguyễn Việt M được bà Nguyễn Thị L là mẹ anh Nguyễn Việt B trực tiếp nuôi dưỡng. dưỡng do anh B đi làm công nhân không có mặt ở địa phương. Chị Nguyễn Thị A không có biểu hiện bất thường gì ở địa phương, chị A vẫn đi làm bình thường, cõ thu nhập thường xuyên.
Tại phiên tòa hôm nay, chị Nguyễn Thị A và anh Nguyễn Việt B đều giữ nguyên quan điểm.
Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về việc giải quyết vụ án: Chấp nhận yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung của chị Nguyễn Thị A.
Giao chị Nguyễn Thị A trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn việt M đến khi có quyết định thay đổi khác. Về cấp dưỡng nuôi con chung: tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Nguyễn Việt B cho đến khi có yêu cầu hoặc thay đổi khác. Về án phí: Chị Nguyễn Thị A phải chiu án phí theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng dân sự: Chị Nguyễn Thị A có đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con chung với anh Nguyễn Việt B. Xét thấy, anh B là bị đơn có nơi cư trú tại thôn P, xã Y, huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội. Như vậy, theo quy định tại Khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, do đó vụ án được Tòa án nhân dân huyện Ba Vì thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.
[2] Về yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung:
Con chung: Chị A và anh B có 1 con chung: Nguyễn Việt M nh 28/8/2016. Tại Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thoản thuận của các đương sự số 257/QĐST-HNGĐ ngày 02/11/2017, Tòa án nhân dân huyện Ba Vì đã giải quyết giao cho anh Nguyễn Việt B được nuôi con chung. Đến ngày tháng năm 2018 chị Nguyễn Thị A có đơn xin thay đổi nuôi con chung, với lý do cháu M đang ở với bà nội không đảm bảo cuộc sống của cháu. Nguyện vọng của chị A được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Việt M. Qua xác minh chính quyền địa phương và anh Nguyễn Việt B đều thừa nhận cháu Nguyễn Việt M hiện đang ở với bà nội do anh Nguyễn Việt B đi làm công nhân không có mặt ở địa phương nên gửi bà nội nuôi. Mặt khác do cháu M hiện nay mới được 19 tháng tuổi nên cần sự chăm sóc trực tiếp của mẹ. Do đó yêu cầu của chị Nguyễn Thị A là có cơ sở.
[3] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị A không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên tạm miễn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Nguyễn Việt B cho đến khi nào anh chị có yêu cầu. Do vậy, HĐXX không xem xét.
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị A phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[5] Về quyền kháng cáo chị Nguyễn Thị A và anh Nguyễn Việt B được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
- Căn cứ Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội
Xử:
- Chấp nhận yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung của chị Nguyễn Thị A.
Xử giao cháu Nguyễn Việt M – sinh 28/8/2006 cho chị Nguyễn Thị A trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành hoặc cho đến khi có quyết định thay đổi khác.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho chị anh Nguyễn Việt B cho đến khi có quyết định, thay đổi khác.
Anh Nguyễn Việt B có quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai có quyền ngăn cản.
- Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị A phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm. Chị A đã nộp 300.000 đ tạm ứng án phí sơ thẩm theo biên lai số 0008260 ngày 12 tháng 01 năm 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Vì. Nay khấu trừ và tiền tạm ứng án phí chị A đã nộp.
- Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị A và anh Nguyễn Việt B được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 15/2018/HNGĐ-ST ngày 27/03/2018 về thay đổi nuôi con chung
Số hiệu: | 15/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ba Vì - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/03/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về