Bản án 15/2018/HNGĐ-ST ngày 24/08/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 15/2018/HNGĐ-ST NGÀY 24/08/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 24 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 182/2018/TLST-HNGĐ, ngày 30 tháng 5 năm 2018 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2018/QĐXX-ST ngày 30 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1986; Nơi ĐKHKTT: Phố Ph, phường N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình; Nơi ở hiện nay: Đội 15, xã TR, huyện N, tỉnh Nam Định (Có mặt).

Bị đơn: Anh Tạ Đức Nh, sinh năm 1986; Địa chỉ: Số 12, phố Ph, phường N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình; Tạm trú tại: 1137, đường K, phường L, quận T, thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và các bản tự khai chị Nguyễn Thị Th trình bày: Chị kết hôn với anh Tạ Đức Nh ngày 06/02/2009, có được tự do tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại UBND phường N, thành phố Ninh Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại tỉnh Đồng Nai được khoảng hai năm đến khi chị có thai được khoảng 8 tháng thì chị đã về nhà ngoại ở xã T, huyện N, tỉnh Nam Định để sinh con; Khi sinh con được 4 tháng chị đưa con về nhà bố mẹ chồng ở phường N, thành phố Ninh Bình sinh sống, đến khi con chị được gần 3 tuổi thì chị cho con về nhà ngoại ở Nam Định sinh sống từ đó cho đến nay. Sau khi kết hôn vợ chồng chị chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến tháng 3 năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp, anh Nh không quan tâm đến gia đình, vợ chồng xa cách mỗi người sống mỗi nơi không có hạnh phúc, gặp nhau là cãi nhau ảnh hưởng đến gia đình và con cái. Cũng từ tháng 3 năm 2012 đến nay vợ chồng chị sống ly thân, không còn quan hệ tình cảm với nhau, chị cho con về nhà ngoại ở Nam Định sinh sống, còn anh Nh ở với bố mẹ tại phường N, thành phố Ninh Bình, thi thoảng anh Nh có sang thăm con rồi lại về Ninh Bình tình cảm vợ chồng không cải thiện được. Anh Nh làm cơ khí thường xuyên đi làm ăn xa lúc ở Ninh Bình, lúc lại ở chỗ khác ai thuê thì làm hoặc đi làm theo công trình. Khi chị làm đơn ly hôn thì anh Nh đang ở Ninh Bình, sau khi Tòa án thụ lý vụ án Tòa án có thông báo cho chị biết anh Nh hiện đang tạm trú tại 74, ấp Dòng S, xã A, huyện B, tỉnh Bình Dương, chị có điện cho anh Nh thì anh Nh nói đi làm theo công trình không về để giải quyết ly hôn được và bảo chị cứ đề nghị Tòa án giải quyết theo đơn ly hôn mà chị và anh Nh đã thỏa thuận ngày 02/5/2018. Sau đó anh Nh nói công việc ở Bình Dương đã xong, nay anh lại đang làm cho một công trình khác không còn ở Bình Dương nữa mà đang làm và tạm trú tại số 1137, đường K, phường L, quận T, thành phố Hồ Chí Minh. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng không thể giải quyết được, sống không có hạnh phúc, nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nh theo nguyện vọng của anh Nh và chị đã viết trong đơn ly hôn ngày 02/5/2018.

Về con chung: Chị và anh Nh có 1 con chung là cháu Tạ Khánh L, sinh ngày 23/10/2011, hiện nay cháu đang ở với chị, khi ly hôn chị và anh Nh đã thỏa thuận trong đơn ly hôn ngày 02/5/2018 chị chăm sóc nuôi dưỡng cháu L và không yêu cầu anh Nh cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung và công nợ chung: Không có nên chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

- Tại bản tự khai ngày 13/6/2018 và các đơn đề nghị anh Tạ Đức Nh trình bày: Anh kết hôn với chị Nguyễn Thị Th ngày 06/02/2009, có được tự do tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại UBND phường N, thành phố Ninh Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến tháng 3 năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không cùng quan điểm sống và nơi sinh sống của mỗi người một nơi, vợ con anh thì về nhà ngoại ở huyện T, tỉnh Nam Định sinh sống, còn anh vẫn ở nhà bên Ninh Bình sinh sống cũng từ đó vợ chồng sống ly thân và không còn quan hệ tình cảm vợ chồng với nhau. Thi thoảng anh có về bên ngoại thăm con và cũng như vậy thi thoảng chị Th cũng đưa con về bên nội chơi với ông bà, nhưng tình cảm vợ chồng không cải thiện được. Nay chị Th có đơn xin ly hôn, vợ chồng anh thống nhất đề nghị Tòa án giải quyết cho vợ chồng anh được ly hôn như đã thỏa thuận trong đơn ly hôn ngày 02/5/2018.

Về con chung: Có một con chung là cháu Tạ Khánh L, sinh ngày 23/10/2011, anh và chị Th thỏa thuận để chị Nguyễn Thị Th được quyền nuôi dưỡng cháu và không yêu cầu anh phải cấp dưỡng. Về tài sản chung, công nợ: Không có gì và không đề nghị Tòa án giải quyết. Nay anh phải đi làm ăn xa trong Bình Dương thi thoảng mới về Ninh Bình, khi Tòa án báo gọi anh không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án được, nên anh đề nghị xin Tòa án giải quyết vắng mặt anh, cho anh xin vắng mặt trong lần báo gọi và lần hòa giải, các phán quyết của Tòa án, anh xin chấp hành và không có ý kiến gì.

Tại phiên toà chị Nguyễn Thị Th vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết cho chị được ly hôn anh Tạ Đức Nh; Về con chung chị Th xin được chăm sóc nuôi dưỡng cháu Tạ Khánh L và không yêu cầu anh Nh cấp dưỡng cho con. Tại đơn đề nghị ngày 15/8/2018 anh Tạ Đức Nh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Th; Về con chung: chị Th nuôi dưỡng cháu Tạ Khánh L, anh và chị Th đã thỏa thuận anh không phải cấp dưỡng cho con; Do công việc trong Nam chưa song, nên anh đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình cho anh được vắng mặt tại phiên tòa ngày 24/8/2018 .

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về địa chỉ nơi cư trú và việc tham gia tố tụng của anh Tạ Đức Nh: ChÝnh quyÒn ®Þa ph•¬ng, gia ®×nh anh Nh và tại đơn xin ly hôn ngày 02/5/2018 anh Nh chị Th trình bày anh Nh có hộ khẩu thường trú tại phố Ph, phường N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình đây là nơi anh Nh thường xuyên sinh sống nhưng do công việc làm ăn phải di chuyển nên khi Tòa án thụ lý vụ án anh Nh lại thay đổi địa chỉ nơi cư trú tại 74, ấp Dòng S, xã A, huyện B, tỉnh Bình Dương và sau đó thay đổi tiếp tạm trú tại số 1137, đường K, phường L, quận T, thành phố Hồ Chí Minh; Như vậy việc anh Nh thường xuyên thay đổi địa chỉ nơi cư trú là do công việc làm ăn chứ không nhằm mục đích che dấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ và có đơn đề nghị Tòa án giải quyết, xét xử vắng mặt, anh Nh đã thực hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Do vậy Tòa án tiến hành giải quyết và xét xử vụ án vắng mặt anh Nh theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Th và anh Tạ Đức Nh là tự nguyện, hợp pháp đúng theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chị chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến tháng 3 năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn và cũng từ đó vợ chồng sống ly thân, không còn quan hệ tình cảm với nhau. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp, vợ chồng xa cách mỗi người sống mỗi nơi không có hạnh phúc. Ủy ban nhân dân phường N, gia đình anh Nh và bản thân vợ chồng anh Nh chị Th cũng xác định tình trạng vợ chồng anh Nh chị Th sống ly thân, không tìm được tiếng nói chung, mỗi người mỗi nơi và có đơn thuận tình ly hôn gửi Tòa án cho thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Th và anh Nh đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên cần chấp nhận đơn khởi kiện của chị Th, cho chị Nguyễn Thị Th được ly hôn anh Tạ Đức Nh là phù hợp với Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Về con chung: Chị Th và anh Nh có một con chung là cháu Tạ Khánh L, sinh ngày 23/10/2011. Hội đồng xét xử xét thấy hiện nay cháu L đang ở với chị Th được chị Th chăm sóc tốt, anh Nh đi làm ăn xa không có điều kiện chăm sóc cho cháu, trong đơn xin ly hôn hai bên cũng thỏa thuận để cháu L cho chị Th chăm sóc, nuôi dưỡng. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của cháu L, nên giao cháu L cho chị Th tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi là phù hợp với khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Về mức cấp dưỡng cho con: Chị Th không yêu cầu anh Nh cấp dưỡng cho con, anh Nh không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về tài sản chung, công nợ chung: Chị Th, anh Nh xác định không có, không đề nghị Tòa án giải quyết, do vậy HĐXX không xem xét giải quyết.

- Về án phí ly hôn: Chị Nguyễn Thị Th phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng).

- Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[3] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: đều đảm bảo theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Nguyên đơn và bị đơn đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Về quan điểm giải quyết vụ án: Áp dụng Điều 56, Điều 81, 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH, đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị Th về việc “Xin ly hôn, tranh chấp về nuôi con” đối với anh Tạ Đức Nh; Về quan hệ hôn nhân: Xử ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Th với anh Tạ Đức Nh; Về con chung: ghi nhận sự thỏa thuận của anh Tạ Đức Nh và chị Nguyễn Thị Th, chị Nguyễn Thị Th được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Tạ Khánh L, sinh ngày 23/10/2011, Anh Tạ Đức Nh không phải cấp dưỡng nuôi con; Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Th phải nộp án phí ly hôn là 300.000đồng, được trừ vào số tiền 300.000đồng đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 228; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị Th về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” đối với anh Tạ Đức Nh.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Th ly hôn anh Tạ Đức Nh.

2.Về con chung: Giao cháu Tạ Khánh L, sinh ngày 23/10/2011 cho chị Nguyễn Thị Th trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, kể từ tháng 8 năm 2018 cho đến khi cháu L đủ 18 tuổi. Về mức cấp dưỡng cho con: Các đương sự không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Anh Nh có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở và có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Chị Th có quyền yêu cầu anh Nh có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

3. Về tài sản chung, công nợ chung: Chị Th và anh Nh xác định không có, không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí ly hôn: Chị Nguyễn Thị Th phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng), được trừ vào số tiền 300.000đồng tạm ứng án phí chị Th đã nộp theo biên lai số 0000759 ngày 29/5/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình.

Án xử sơ thẩm công khai chị Nguyễn Thị Th có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 24/8/2018; anh Tạ Đức Nh vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết .

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 15/2018/HNGĐ-ST ngày 24/08/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:15/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;