Bản án 15/2018/DS-ST ngày 10/04/2018 tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 15/2018/DS-ST NGÀY 10/04/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 4 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 134/2017/TLST-DS ngày 24 tháng 10 năm 2017 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 12a/2018/QĐXXST-DS ngày 23 tháng 02 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần A. (Có mặt).

Địa chỉ: đường L, phường X, quận N, TP HCM.

Do ông Nguyễn Văn T - Chủ tịch Hội đồng quản trị - là người đại diện theo pháp luật của Ngân hàng Thương mại cổ phần A. Ủy quyền cho ông Nguyễn Văn A – Tổng giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần A thực hiện một số công việc tại cơ quan tư pháp. (Văn bản ủy quyền số: 122/QĐ-DAB-HĐQT ngày 27/4/2016).

Theo văn bản ủy quyền số: 1094/QĐ-DAB-HĐQT ngày 21/6/2016 của Tổng giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần A cho ông Lê H - Giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần A - Chi nhánh Bến Tre đại diện.

Địa chỉ: Đại lộ Đ, phường P, Tp B, tỉnh Bến Tre.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn:

Chị Võ Thị X, sinh năm: 1986

Địa chỉ: Đại lộ Đ, phường P, Tp B, tỉnh Bến Tre.

(Theo văn bản ủy quyền số 08-2017/QĐ-TA-BTE ngày 22 tháng 12 năm 2017).

2. Bị đơn: anh Trần Văn P, sinh năm: 1985, (Vắng mặt);

Địa chỉ: ấp C, xã T, huyện C, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 08 tháng 8 năm 2017 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn chị Võ Thị X trình bày:

Anh Trần Văn P trước đây là giáo viên của Trường trung học phổ thông H (sau đây gọi là trường H); địa chỉ: xã T, huyện C, tỉnh Bến Tre.

Ngày 20/9/2013, Ngân hàng Thương mại cổ phần A – Chi nhánh Bến Tre (sau đây gọi là Ngân hàng) ký thỏa thuận liên kết số TO246-13/TTLK, nội dung Ngân hàng được triển khai chương trình cho vay có đối tác liên kết đối với nhân viên của trường H. Ngoài ra, trường H còn hỗ trợ trong việc phân công người thu và nộp tiền cho Ngân hàng; nhắc nhở, đôn đốc khi có cán bộ, công nhân viên trễ hạn trả nợ; thông báo cho Ngân hàng về việc có cán bộ, công nhân viên nghỉ hoặc chuyển công tác, hỗ trợ phía Ngân hàng giữ lại tiền lương, trợ cấp thôi việc và toàn bộ các khoản được hưởng khác để ưu tiên thanh toán số tiền còn nợ vay cho Ngân hàng.

Ngày 01/10/2013, anh P đã ký giấy vay tiền trả góp của Ngân hàng theo hợp đồng số 012310001T13001 vay số tiền là 20.000.000 đồng, lãi suất 9,6%/năm (0,8%/tháng, lãi quá hạn là 1,2%/tháng); thời hạn vay 36 tháng (từ ngày 01/10/2013 đến ngày 01/10/2016), mục đích vay tiêu dùng trả góp, hình thức vay tín chấp, mỗi kỳ góp 720.000 đồng, kỳ cuối góp 560.000 đồng. Khoản vay này bắt buộc chuyển tiền qua tài khoản thẻ chứ không có giải ngân bằng tiền mặt. Anh P đã trả cho Ngân hàng được 17.445.556 đồng, trong đó vốn là 11.967.896 đồng, lãi trong hạn là 5.085.405 đồng, lãi quá hạn là 392.255 đồng.

Đến thời điểm trả nợ vay cả vốn và lãi vay đã hơn 44 tháng nhưng anh P vẫn không thanh toán nợ cho Ngân hàng theo như cam kết trong hợp đồng. Đến ngày 22/12/2017, số tiền anh P nợ của Ngân hàng tạm tính: tiền vốn 8.032.104 đồng, lãi trong hạn 674.595 đồng, lãi quá hạn 1.844.069 đồng. Tổng cộng số tiền anh P còn thiếu nợ của Ngân hàng là 10.550.768 đồng.

Nay, Ngân hàng yêu cầu Tòa án giải quyết buộc anh P phải có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng số tiền tạm tính đến ngày xét xử sơ thẩm số tiền là 10.104.182 đồng, trong  đó tiền vốn  là 8.032.104 đồng,  lãi  trong  hạn  674.595  đồng,  lãi  quá hạn 1.397.483 đồng và tiền lãi phát sinh tính từ ngày 10/4/2018 (ngày xét xử sơ thẩm) đến ngày anh P trả hết nợ với mức lãi suất nợ quá hạn 14,4%/năm.

Đối với trường H, theo thỏa thuận liên kết nêu trên, do đợt vay này chỉ có một mình anh P vay tiền nên Hiệu trưởng trường H phân công cho anh P có trách nhiệm nộp tiền vay cho Ngân hàng. Trong món vay này, trường H chỉ hỗ trợ cho Ngân hàng theo nội dung của thỏa thuận liên kết chứ không thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, trả nợ thay cho anh P. Sau khi vay vốn, anh P có thanh toán cho Ngân hàng (trả góp) một thời gian, sau đó anh P tự ý nghỉ việc, không có quyết định cho nghỉ việc nên không được hưởng trợ cấp thôi việc. Vì vậy, trường H không giữ lại được khoản tiền nào của anh P để trả nợ cho Ngân hàng. Trong vụ kiện này trường H không phải là người bảo lãnh nên không phải là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và Ngân hàng không yêu cầu gì đối với trường H hay Hiệu trưởng trường H ông Đỗ C.

Anh P đã thay đổi nơi cư trú nhưng không thông báo cho Ngân hàng về nơi cư trú mới. Ngân hàng không có thông tin về nơi cư trú mới của anh P để cung cấp cho Tòa án. Ngân hàng yêu cầu Tòa án thụ lý giải quyết theo thủ tục chung được quy định tại Điều 6 Nghị quyết số: 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Tại phiên tòa, Ngân hàng rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền 5.000.000 đồng do anh P đã trả cho Ngân hàng một phần nợ nêu trên. Còn nợ lại 5.799.597 đồng, trong đó vốn là 3.032.104 đồng; lãi trong hạn là 674.595 đồng; lãi quá hạn là 2.092.898 đồng. Ngân hàng yêu cầu Tòa án giải quyết buộc anh P trả số tiền còn nợ nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

- Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý cũng như quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, Thư ký đã thực hiện đúng quy định và tại phiên toà Hội đồng xét xử, những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đã đảm bảo đúng trình tự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Riêng bị đơn anh Trần Văn P vắng mặt tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như tại phiên tòa hôm nay không có lý do.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng A, buộc anh Trần Văn P trả cho Ngân hàng A số tiền 5.799.597 đồng, trong đó vốn là 3.032.104 đồng; lãi trong hạn là 674.595 đồng; lãi quá hạn là 2.092.898 đồng và buộc anh P trả thêm lãi phát sinh đến ngày anh P thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ.

+ Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng A về việc yêu cầu anh Trần Văn P trả 5.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Ngày 08/8/2017, Ngân hàng Thương mại cổ phần A – Chi nhánh Bến Tre khởi kiện tại Toà án nhân dân huyện C yêu cầu Tòa án giải quyết buộc anh P trả cho Ngân hàng số nợ còn thiếu là 10.550.768 đồng, trong đó tiền vốn là 8.032.104 đồng, lãi trong hạn là 674.595 đồng, lãi quá hạn là 1.397.483 đồng và tiền lãi phát sinh tính từ ngày 10/4/2018 (ngày xét xử sơ thẩm) đến ngày anh P trả hết nợ với mức lãi suất nợ quá hạn 14,4%/năm. Căn cứ theo yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng, vụ án có quan hệ pháp luật tranh chấp về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 463 Bộ luật dân sự. Vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Châu Thành theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn anh Trần Văn P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và phiên tòa hôm nay. Xét thấy, tại “Giấy đăng ký vay tiền trả góp (kiêm khế ước nhận nợ)” ngày 20/9/2013 ký kết giữa Ngân hàng và anh P thể hiện địa chỉ của anh P tại xã T, huyện C, tỉnh Bến Tre; đang công tác tại Trường THPT H; địa chỉ: xã T, huyện C, tỉnh Bến Tre. Tuy nhiên, sau đó anh P thay đổi nơi cư trú, làm việc gắn với việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng với Ngân hàng mà không thông báo cho Ngân hàng biết về nơi cư trú, làm việc mới, thể hiện tại “Đơn xin xác nhận nơi cư trú” ngày 09/01/2018 của Ngân hàng A tại Công an xã T và “Biên bản xác minh” ngày 13/12/2017 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành đối với bà Võ Thị H, là mẹ của anh P, đều xác định anh P vẫn còn đăng ký thường trú tại ấp C, xã T, huyện C, tỉnh Bến Tre nhưng hiện nay anh P không còn sinh sống tại địa chỉ nêu trên. Anh P đã chuyển về Vĩnh Long sinh sống nhưng sống ở nhà trọ nên bà H không biết địa chỉ cụ thể của anh P để cung cấp cho Tòa án. Ngoài ra, tại “Biên bản xác minh” ngày 23/3/2018 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành tại Trường  THPT H, nơi anh P công tác trước đây, cũng xác định anh P đã tự ý nghỉ việc hiện nay không còn giảng dạy ở trường H nữa. Mặt khác, Tòa án đã yêu cầu Ngân hàng cung cấp địa chỉ mới hiện nay của anh P đang sinh sống cho Tòa án nhưng Ngân hàng không cung cấp được. Từ các căn cứ nêu trên có cơ sở xác định anh P cố tình giấu địa chỉ nên Tòa án nhân dân huyện Châu Thành xét xử vắng mặt anh P là phù hợp với quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192, khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, hướng dẫn tại điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số: 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Tòa án nhân dân tối cao.

[2] Đối với yêu cầu của Ngân hàng yêu cầu anh P trả cho Ngân hàng số tiền 10.550.768 đồng:

Theo Ngân hàng A: ngày 01/10/2013, anh P đã ký giấy vay tiền trả góp của Ngân hàng theo hợp đồng số 012310001T13001 vay số tiền là 20.000.000 đồng, lãi suất 9,6%/năm (0,8%/tháng, lãi quá hạn là 1,2%/tháng); thời hạn vay 36 tháng (từ ngày 01/10/2013 đến ngày 01/10/2016), mục đích vay tiêu dùng trả góp hàng tháng vào ngày 15, hình thức vay tín chấp, mỗi kỳ góp 720.000 đồng, kỳ cuối góp 560.000 đồng. Anh P đã trả cho Ngân hàng số tiền   22.445.556 đồng, trong đó vốn là 16.967.896 đồng, lãi trong hạn là 5.085.405 đồng và lãi quá hạn là 392.255 đồng. Từ ngày 07/3/2016, anh P không thực hiện việc trả nợ cho Ngân hàng theo thỏa thuận nên có căn cứ xác định anh P đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng.

Đối với yêu cầu của Ngân hàng buộc anh P trả số tiền vốn còn thiếu là 3.032.104 đồng, lãi trong hạn tạm tính là 674.595 đồng; lãi quá hạn là 2.092.898 đồng. Tổng cộng số tiền anh P còn nợ là 5.799.597 đồng. Theo Ngân hàng, anh P đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng nhưng vì anh P nghỉ việc tại trường H là nghỉ ngang, không có quyết định nghỉ việc nên Ngân hàng không làm việc được với anh P để xác nhận nợ. Ngoài ra, tại  điểm 6 mục III của “Giấy vay tiền trả góp (kiêm khế ước nhận nợ)” có nội dung: “Trường hợp tôi đề nghị giải ngân số vốn vay qua tài khoản thẻ được mở tại A Bank (Ngân hàng A), tôi thừa nhận rằng dữ liệu điện tử lưu tại hệ thống mạng của A Bank (Ngân hàng A) ghi nhận việc A Bank (Ngân hàng A) ghi có số vốn vay vào tài khoản thẻ của tôi là bằng chứng chứng minh tôi đã nhận khoản dư nợ vay do A Bank (Ngân hàng A) cấp”. Tại phiên tòa chị X xác định món vay này bắt buộc mở thông qua tài khoản thẻ không vay bằng mặt. Tại “Sao kê hoạt động khách hàng vay” của Ngân hàng A với anh P thể hiện dư nợ vốn còn lại của anh P đến ngày xét xử sơ thẩm là 3.032.104 đồng, lãi trong hạn là 674.595 đồng; lãi quá hạn là 2.092.898 đồng. Tổng cộng số tiền anh P còn nợ là 5.799.597 đồng nên có căn cứ xác định anh P còn nợ Ngân hàng số tiền nêu trên. Yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng là có căn cứ và phù hợp với quy định tại Điều 466, 468 Bộ luật dân sự nên được chấp nhận.

Tại phiên tòa Ngân hàng A rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền là 5.000.000 đồng do anh P đã trả một phần nợ. Việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với quy định tại điểm g khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự nên được chấp nhận.

Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành có căn cứ nên được chấp nhận.

[3] Về án phí: Anh P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền là 300.000 đồng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng Điều 463, 466, 468; khoản 5 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Buộc anh Trần Văn P trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần A, do ông Nguyễn Văn T  - Chủ tịch Hội đồng quản trị - là người đại diện theo pháp luật của Ngân hàng Thương mại cổ phần A. Ủy quyền cho ông ông Nguyễn Văn A –  Tổng giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần A thực hiện một số công việc tại cơ quan tư pháp. Theo văn bản ủy quyền số: 1094/QĐ-DAB-HĐQT ngày 21/6/2016 của Tổng giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần A cho ông Lê H - Giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần A - Chi nhánh Bến Tre đại diện, số tiền là 5.799.597đ (Năm triệu bảy trăm chín mươi chín ngàn năm trăm chín mươi bảy đồng). Trong đó: tiền vốn là 3.032.104đ (Ba triệu không trăm ba mươi hai ngàn một trăm lẻ bốn đồng), lãi trong hạn là 674.595đ (Sáu trăm bảy mươi bốn ngàn năm trăm chín mươi lăm đồng), lãi quá hạn là 2.092.898đ (Hai triệu không trăm chín mươi hai ngàn tám trăm chín mươi tám đồng).

2. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu trả số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) của Ngân hàng Thương mại cổ phần A, do ông Nguyễn Văn T  - Chủ tịch Hội đồng quản trị - là người đại diện theo pháp luật của Ngân hàng Thương mại cổ phần A. Ủy quyền cho ông Nguyễn Văn A – Tổng giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần A thực hiện một số công việc tại cơ quan tư pháp. Theo văn bản ủy quyền số: 1094/QĐ- DAB-HĐQT ngày 21/6/2016 của Tổng giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần A cho ông Lê H - Giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần A - Chi nhánh Bến Tre đại diện, do rút yêu cầu.

3. Về án phí: anh Trần Văn P phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng).

Hoàn trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần A, do ông Nguyễn Văn T  - Chủ tịch Hội đồng quản trị - là người đại diện theo pháp luật của Ngân hàng Thương mại cổ phần A. Ủy quyền cho ông Nguyễn Văn A – Tổng giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần A thực hiện một số công việc tại cơ quan tư pháp. Theo văn bản ủy quyền số: 1094/QĐ-DAB-HĐQT ngày 21/6/2016 của Tổng giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần A cho ông Lê H - Giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần A - Chi nhánh Bến Tre đại diện, số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai số 0012699 ngày 24/10/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Bến Tre.

4. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm anh P còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng Thương mại cổ phần A thì lãi suất mà anh P phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng Thương mại cổ phần A theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng Thương mại cổ phần A.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, anh Trần Văn P vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

330
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 15/2018/DS-ST ngày 10/04/2018 tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:15/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Bến Tre
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 10/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;