TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 15/2016/DSST NGÀY 28/12/2016 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 28/12/2016, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 58/2016 /TLST- DSST ngày 08 tháng 6 năm 2016 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2016/QĐXX ngày 12/12/2016, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Anh Hoàng Mạnh T, sinh năm 1986
Trú tại: Làng Đ, xã K, huyện Đ, tỉnh TN (Có mặt tại phiên tòa)
Bị đơn: Anh Trương Tuấn A, sinh năm 1986
Trú tại: xóm T, xã C N, thành phố T, tỉnh TN
(Có mặt tại phiên tòa)
NHẬN THẤY
Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên toà nguyên đơn là anh Hoàng Mạnh Tài trình bày:
Tháng 6 năm 2014 tôi có nhận làm cho anh Trương Tuấn A 1.300m2 mái tôn để anh A làm trang trại nuôi gà. Đầu tháng 7 năm 2014 tôi làm xong công trình nhưng anh A không thanh toán cho tôi số tiền 270.000.000đ (Hai trăm bảy mươi triệu đồng) bao gồm tiền vật tư và tiền công làm mái tôn. Đến ngày 01/01/2015 tôi có yêu cầu anh A viết giấy vay tôi số tiền 270.000.000đ (Hai trăm bảy mươi triệu đồng) với lãi suất 0,1%/tháng và hẹn đến 30/6/2015 anh sẽ thanh toán đầy đủ cho tôi. Nhưng cho đến nay anh A vẫn chưa thanh toán cho tôi số tiền trên.
Bị đơn - anh A trình bày: Tôi có hợp đồng với anh T làm hợp đồng mái tôn của trang trại gà là 1.400m tôn làm trang trại và có hẹn anh đến khi nào gà xuất chuồng được tôi sẽ thanh toán cho anh T số tiền 270.000.000đ tiền làm mái tôn trang trại gà. Nhưng trong quá trình chăn nuôi gà do làm ăn thua lỗ nên tôi chưa có tiền để trả cho anh T. Ngày 19/02/2016 tại gia đình tôi, tôi có hẹn với anh T đến tháng 10/2016 sẽ thanh toán dần số tiền trên cho anh T.
Nay anh T yêu cầu tôi trả số nợ 270.000.000đ tôi xin được thanh toán dần số tiền trên thành nhiều đợt vì điều kiện gia đình tôi hiện rất khó khăn do làm ăn thua lỗ.
Toà án đã tiến hành hoà giải nhưng các đương sự không thống nhất được, cho nên Toà án phải đưa vụ kịên ra xét xử công khai tại phiên toà ngày hôm nay.
XÉT THẤY
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định :
Về tố tụng: Đây là vụ kiện tranh chấp hợp đồng vay tài sản theo quy định tại điều 471, 474 BLDS và Điều 26 BLTTDS, do vậy thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên .
Về nội dung: Qua nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà.
Hội đồng xét xử thấy:
* Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Tháng 6/2014 tôi có nhận làm trang trại nuôi gà cho anh Trương Tuấn A, đến tháng 7/2014 tôi làm xong công trình nhưng anh Trương Tuấn A không thanh toán cho tôi số tiền 270.000.000đ (Hai trăm bảy mươi triệu đồng) tiền vật tư và tiền công. Đến ngày 01/01/2015 tôi yêu cầu anh Trương Tuấn A viết giấy vay tôi số tiền 270.000.000đ với lãi suất 0,1%/tháng và hẹn đến ngày 30/6/2015 anh sẽ thanh toán cho tôi đầy đủ số tiền trên. Nhưng cho đến nay anh vẫn chưa thanh toán cho tôi số tiền nợ trên.
Nay anh yêu cầu anh Trương Tuấn A phải trả số tiền gốc 270.000.000đ và không yêu cầu lãi suất.
Đây là các hợp đồng vay tài sản có thoả thuận về thời hạn thanh toán và được xác định là Hợp đồng vay tài sản có kỳ hạn được quy định tại khoản 2 Điều 478 Bộ luật dân sự. Quá trình thực hiện hợp đồng vay anh Tuấn A không thực hiện đúng thoả thuận trong hợp đồng, đến hạn thanh toán không trả được tiền gốc cho anh T.
Tại Điều 474 BLDS quy định:
1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn..
Các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ cho thấy anh A có nợ anh T với tổng số tiền 270.000.000đ là có thật, có thoả thuận về thời hạn thanh toán. Hiện nay, số tiền này đã quá hạn thanh toán nhưng anh A vẫn chưa trả. Nay anh T yêu cầu anh A phải thanh toán khoản tiền gốc 270.000.000đ là có cơ sở để chấp nhận. Do vậy, Hội đồng xét xử thấy có đủ căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Tài buộc anh A phải có trách nhiệm thanh toán cho anh T số tiền gốc là 270.000.000đ
- Về lãi suất: anh T không yêu cầu trả lãi suất
Về án phí: Anh A phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Án xét xử công khai, các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Bởi lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng các khoản 2 Điều 305, Điều 471, 474 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 26, 146 , 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Pháp lệnh số 10/UBTVQH12 ngày 27/02/2009 quy định về án phí lệ phí toà án;
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Hoàng Mạnh T
- Buộc anh Trương Tuấn A phải có trách nhiệm trả cho anh Hoàng Mạnh T số tiền gốc 270.000.000đ
Về lãi suất: anh T không yêu cầu tính lãi suất
- Về nghĩa vụ thi hành án: Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật, anh T có đơn yêu cầu thi hành án, nếu anh A không tự nguyện thi hành số tiền trên thì hàng tháng anh A còn phải chịu một khoản tiền lãi theo mức lãi xuất cơ bản do Ngân hàng nhà nước Việt Nam quy định tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Anh A phải nộp số tiền án phí dân sự sơ thẩm là 13.500.000 (Mười ba triệu, năm trăm nghìn đồng chẵn) vào ngân sách Nhà nước.
- Hoàn trả anh Hoàng Mạnh T số tiền tạm ứng án phí đã nộp 6.750.000đ theo biên lai thu số 0004485 ngày 08/6/2016 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện yêu cầu thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các quy định tại điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt các đương sự. Báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 15/2016/DSST ngày 28/12/2016 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 15/2016/DSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 28/12/2016 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về