TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 150/2020/HS-ST NGÀY 01/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 01 tháng 6 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 145/2020/TLST- HS ngày 04 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 145/2020/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 5 năm 2020, đối với bị cáo:
Họ tên: Phạm Duy K - sinh năm 1970 tại: Tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Thôn C, xã L, huyện Y, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Mạnh T (đã chết) và bà Ngô Thị C; có vợ Ngô Thị H và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 28-3-2012 bị Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy’; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11-3-2020, sau đó chuyển tạm giam từ ngày 20-3-2020 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Nam Định; bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người làm chứng:
Anh Nguyễn Ngọc T1, anh Đỗ Văn T2 (không triệu tập tới phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
1 Khoảng 13 giờ ngày 11-3-2020, tổ công tác của Công an phường Trần Đăng Ninh, thành phố Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực trước cổng làng B, đường 10, xã A, thành phố Đ phát hiện Phạm Duy K đang đi xe máy biển kiểm soát: 18S2-7410 một mình có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Quá trình kiểm tra, K thả từ tay trái xuống đất 01 túi nilong màu đen. Tổ công tác đã kịp thời thu giữ, mở kiểm tra bên trong là 01 lớp giấy bạc màu trắng, trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng (K khai đó là Heroine). Tổ công tác đã niêm phong vật chứng, đưa K cùng người làm chứng về trụ sở, lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, tổ công tác còn tạm giữ của K 01 xe máy biển kiểm soát: 18S2-7410 (đã cũ).
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã trưng cầu giám định vật chứng thu giữ. Tại bản kết luận giám định số 305/GĐKTHS ngày 16-3-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng thu giữ của Phạm Duy K được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại chất ma túy là Heroine, có khối lượng 0,125 gam (không phẩy một hai năm gam).
Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, Phạm Duy K khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, đồng thời khai nhận về nguồn gốc gói ma túy như sau: Khoảng 12 giờ ngày 11-3-2020, Phạm Duy K đi xe máy từ chỗ làm ở xã N, huyện Y, tỉnh Nam Định đến đến khu vực đường C, thành phố Đ gặp và mua của một người đàn ông (không rõ tên tuổi, địa chỉ) 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng để sử dụng. Sau khi mua được ma túy, K cầm gói ma túy ở tay trái rồi đi về tìm nơi sử dụng. Khi K đi đến khu vực cổng làng B, đường 10, xã A, thành phố Đ thì bị phát hiện bắt giữ như đã nêu trên.
Đối với đối tượng đã đưa ma túy cho Phạm Duy K, hiện tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ kết luận nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã tách ra tiếp tục điều tra xử lý sau.
Bản cáo trạng số 143/CT-VKSTPNĐ ngày 04-5-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố bị cáo Phạm Duy K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo Phạm Duy K tại phiên tòa thể hiện hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Duy K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo Phạm Duy K từ 21 tháng tù đến 27 tháng tù, miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Xử lý vật chứng đã thu giữ theo quy định của pháp luật.
Bị cáo Phạm Duy K nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phạm Duy K không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Về tội danh:
Lời khai nhận tội của bị cáo Phạm Duy K phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án nên có đủ cơ sở xác định: Khoảng 13 giờ ngày 11-3-2020, Phạm Duy K đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,125 gam Heroine thì bị phát hiện bắt quả tang tại khu vực trước cổng làng B, đường 10, xã A, thành phố Đ. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện, khối lượng Heroine bị cáo tàng trữ là 0,125 gam nên bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Về các tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Phạm Duy K đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Về hình phạt: Xét bị cáo Phạm Duy K là đối tượng có nhân thân xấu, bị cáo đã từng được giáo dục nhưng không lấy đó làm bài học để ăn năn hối cải thể hiện bản chất coi thường pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử sẽ xử phạt bị cáo ở mức thấp của khung hình phạt mà bị cáo bị truy tố nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Phạm Duy K tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng: Số ma túy đã thu giữ là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để tịch thu tiêu hủy.
- Chiếc xe máy biển kiểm soát: 18S2-7410 (đã cũ) là tài sản cá nhân của bị cáo Phạm Duy K, xét không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo, song tạm giữ để bảo đảm thi hành án.
[7] Về án phí: Bị cáo Phạm Duy K bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Phạm Duy K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Phạm Duy K 02 năm tù (Hai năm tù). Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 11-3-2020.
2. Xử lý vật chứng:
- Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ.
Trả lại cho bị cáo Phạm Duy K chiếc xe máy biển kiểm soát: 18S2-7410 (đã cũ), song tạm giữ để bảo đảm thi hành án.
(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhân vật chứng ngày 06-5- 2020).
3. Án phí:
- Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016. Bị cáo Phạm Duy K phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo:
Bị cáo Phạm Duy K được quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 150/2020/HS-ST ngày 01/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 150/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/06/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về