Bản án 150/2020/DS-ST ngày 21/09/2020 về tranh chấp hợp đồng dân sự - hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ LONG MỸ, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 150/2020/DS-ST NGÀY 21/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ - HỤI

Ngày 21 tháng 9 năm 2020 tại Tòa án nhân dân Thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 02/2020/TLST-DS, ngày 02 tháng 01 năm 2020 về việc tranh chấp hợp đồng dân sự - hụi, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 149/2020/QĐXXST–DS, ngày 01 tháng 9 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 50/2020/QĐST-DS ngày 11 tháng 9 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm: 1972.

Đa chỉ: Ấp 1, xã P, thị xã M, tỉnh Hậu Giang. Có mặt.

2. Bị đơn: Bà Trần Thị N1, sinh năm: 1974.

Đa chỉ: Khu vực 4, phường A, thị xã M, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 06/11/2019 và tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Thị N trình bày: Vào năm 2011 bà có tham gia chơi hụi do bà Trần Thị N1 làm chủ, cụ thể như sau:

- Dây hụi ngày 09/11/2011 (âl) hụi 2.000.000 đồng/tháng, hụi có 21 phần, bà tham gia 01 phần, trong sổ hụi ghi tên Út N, bà đóng được 19 lần, số tiền cụ thể đóng từng lần bao nhiêu bà không nhớ nhưng theo thỏa thuận chơi hụi thì bà được hưởng 19 lần x 2.000.0000 đồng = 38.000.000 đồng.

- Dây hụi ngày 24/11/2011 (âl) hụi 1.000.000 đồng/nửa tháng, hụi có 44 phần, bà tham gia 03 phần. Phần thứ 01 bà đã hốt lần thứ 40 được 39.500.000 đồng, bà N1 đã chung đủ cho bà, phần thứ 02 bà hốt lần thứ 41 được 39.000.000 đồng bà N1 đã chung cho bà được 10.000.000 đồng, còn nợ lại 29.000.000 đồng, phần thứ 3 bà hốt lần thứ 44 được 44.000.000 đồng bà N1 chưa chung. Dây hụi 2.000.000 đồng bà N1 còn nợ 38.000.000 đồng, dây hụi 1.000.000 đồng bà N1 còn nợ phần thứ 2 là 29.000.000 đồng, phần thứ 3 nợ 44.000.000 đồng. Đến ngày 27/4/2013 bà N1 tính lại số tiền đóng thực tế của dây hụi 2.000.000 đồng ngày 09/11/2011 và dây hụi 1.000.000 đồng ngày 24/11/2011 phần thứ 2 và phần thứ 3 bà N đã đóng tổng cộng là 46.500.000 đồng, bà N1 cam kết trả hàng tháng 10.000.000 đồng cho đến khi hết nợ. Bà đã nhiều lần yêu cầu bà N1 trả nợ nhưng bà N1 vẫn không thực hiện. Tại phiên tòa bà yêu cầu bà N1 trả số tiền thực tế bà đã đóng là 46.500.000 đồng và lãi suất theo quy định tính từ ngày 27/4/2013 đến nay.

Đi với bị đơn bà Trần Thị N1 đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do nên chưa có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại văn bản ngày 01/9/2020 và tại phiên tòa người làm chứng bà Huỳnh Thị Sáu trình bày: Bà có tham gia dây hụi 1.000.000 đồng/nửa tháng ngày 24/11/2011 âm lịch cùng với bà N do bà N1 làm chủ, hụi có 44 phần bà tham gia 01 phần, bà N tham gia 03 phần, bà biết dây hụi này bà N1 còn nợ tiền bà N nhưng không biết bao nhiêu.

Tại văn bản ngày 01/9/2020 và tại phiên tòa người làm chứng bà Phạm Thị Ánh trình bày: Bà có tham gia dây hụi 2.000.000 đồng/tháng ngày 09/11/2011 âm lịch, hụi có 21 phần bà tham gia 01 phần, dây hụi 1.000.000 đồng/nửa tháng ngày 24/11/2011 âm lịch cùng với bà N do bà N1 làm chủ, hụi có 44 phần bà tham gia 01 phần, bà biết 02 dây hụi trên bà N1 còn nợ tiền bà N nhưng không biết bao nhiêu.

Tại văn bản ngày 01/9/2020 và tại phiên tòa người làm chứng bà Trần Thị Chính trình bày: Bà có tham gia dây 1.000.000 đồng/nửa tháng ngày 24/11/2011 âm lịch cùng với bà N do bà N1 làm chủ, bà tham gia 02 phần, bà N tham gia 03 phần, bà biết dây hụi này bà N1 còn nợ tiền bà N nhưng không biết bao nhiêu.

Tại văn bản ngày 01/9/2020 người làm chứng ông Trịnh Ngọc Thanh trình bày: Ông có tham gia dây 1.000.000 đồng/nửa tháng ngày 24/11/2011 âm lịch cùng với bà N do bà N1 làm chủ, ông tham gia 01 phần, bà N tham gia 03 phần, dây hụi này bà N1 còn nợ bà N không ông không biết và xin vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án, từ khi tòa án thụ lý vụ án đến nay Thẩm phán được phân công đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự như: Xác định mối quan hệ tranh chấp, tư cách pháp lý của những người tham gia tố tụng, gửi quyết định xét xử cho Viện kiểm sát nghiên cứu, cấp tống đạt văn bản tố tụng cho những người tham gia tố tụng đúng theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng theo thủ tục quy định về phiên toà sơ thẩm. Đối với các đương sự: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên toà hôm nay bà N đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70,71, Bộ luật tố tụng dân sự. Bà N1 chưa thực hiện đúng quy định tại các Điều 70,72, Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Long Mỹ đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục: Đối với bị đơn bà Trần Thị N1 đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bà N1. Đối với người làm chứng Trịnh Ngọc Thanh có yêu cầu xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 229 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt ông Thanh.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây la vu an “Tranh chấp hợp đồng dân sự – hụi” theo Điều 26, Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vu an thuôc thâm quyền giai quyết cua Toa an.

[3] Nội dung vụ án:

Theo bà Nguyễn Thị N trình bày năm 2011 bà có tham gia dây hụi ngày 09/11/2011 hụi 2.000.000 đồng/tháng và dây hụi ngày 24/11/2011 hụi 1.000.000 đồng/nửa tháng do bà N1 làm chủ. Sau khi bà N1 tuyên bố bể hụi thì bà N1 thừa nhận còn nợ bà số tiền hụi thực đóng là 46.500.000 đồng, bà N1 có viết biên nhận nợ cho bà hứa mỗi tháng trả 10.000.000 đồng nhưng đến nay chưa trả. Nay bà yêu cầu bà N1 trả 46.500.000 đồng và lãi suất theo quy định. Đối với bà N1 đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do nên chưa có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của bà N. Việc tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp hợp đồng dân sự – hụi thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[4] Qua thẩm vấn công khai tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận thấy: Ngày 09/11/2011 âm lịch bà N có tham gia dây hụi 2.000.000 đồng/tháng, do bà N1 làm chủ, hụi có 21 phần, bà tham gia 01 phần trong danh sách chơi hụi ghi tên Út N, bà đã đóng được 19 lần, số tiền đóng từng lần bà không nhớ cụ thể bao nhiêu nhưng thỏa thuận chơi hụi thì bà được hưởng là 38.000.000 đồng, số tiền này bà N1 chưa chung cho bà.

[5] Ngày 24/11/2011 âm lịch bà tham gia dây hụi 1.000.000 đồng/nửa tháng, hụi có 44 phần, bà tham gia 03 phần trong sổ hụi ghi tên Út N. Phần thứ 01 bà đã hốt lần thứ 40 được 39.500.000 đồng, bà N1 đã chung đủ cho bà, phần thứ 02 bà hốt lần thứ 41 được 39.000.000 đồng bà N1 đã chung cho bà được 10.000.000 đồng, còn nợ lại 29.000.000 đồng, phần thứ 3 bà hốt lần thứ 44 được 44.000.000 đồng bà N1 chưa chung. Dây hụi 2.000.000 đồng bà N1 còn nợ 38.000.000 đồng, dây hụi 1.000.000 đồng bà N1 còn nợ phần thứ 2 là 29.000.000 đồng, phần thứ 3 nợ 44.000.000 đồng. Do bà N1 tuyên bố bể hụi nên ngày 27/4/2013 bà N1 tính lại số tiền đóng thực tế của dây hụi 2.000.000 đồng ngày 09/11/2011 và dây hụi 1.000.000 đồng ngày 24/11/2011 phần thứ 2 và phần thứ 3 bà N đã đóng tổng cộng là 46.500.000 đồng.

[6] Xét yêu cầu của bà Nguyễn Thị N Hội đồng xét xử nhận thấy: Đối với dây hụi 2.000.000 đồng/tháng ngày 09/11/2011, hụi có 21 phần, bà tham gia 01 phần đã đóng được 19 lần nhưng không xác định được cụ thể số tiền từng lần đã đóng bao nhiêu, lẽ ra khi đóng hụi bà phải yêu cầu bà N1 ghi vào danh sách hụi để làm căn cứ tính lãi. Đối với dây hụi ngày 24/11/2011 bà trình bày phần thứ 02 bà N1 còn nợ bà 29.000.000 đồng, phần thứ 3 bà N1 nợ bà 44.000.000 đồng. Để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình bà N cung cấp giấy tờ thể hiện phần hụi 1.000.000 đồng ngày 24/11/2011 bà N1 còn nợ 29.000.000 đồng là phần hụi thứ 2, còn phần thứ 3 bà N1 nợ số tiền 44.000.000 đồng nhưng không có giấy tờ gì. Bà trình bày sau khi bể hụi thì bà và bà N1 tính lại số tiền thực tế bà đã đóng của dây hụi 2.000.000 đồng ngày 09/11/2011 và phần thứ 2, thứ 3 của dây hụi 1.000.000 đồng/nửa tháng ngày 24/11/2011 tổng cộng là 46.500.000 đồng, bà N1 có viết biên nhận ngày 27/4/2013 cho bà, tại phiên tòa bà chỉ yêu cầu bà N1 trả lại số tiền thực tế đã đóng là 46.500.000 đồng và tính lãi theo quy định của pháp luật. Tòa án đã riệu tập hợp lệ bà N1 để xác định bà còn nợ tiền bà N 46.500.000 đồng, ghi tên Út N1 như trong biên nhận ngày 27/4/2013 có phải do bà ghi hay không nhưng bà vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ biên nhận ngày 27/4/2013 để buộc bà N1 trả số tiền thực tế bà N đã đóng là 46.500.000 đồng.

[7] Xét yêu cầu tính lãi của bà N Hội động xét xử nhận thấy: Bà N xác định các dây hụi bà tham gia do bà N1 làm chủ là hụi có lãi, thời điểm phát sinh tranh chấp là ngày 27/4/2013 nên Hội đồng xét xử căn cứ Bộ luật dân sự năm 2005 để tính lãi. Theo quy định tại khoản 1 Điều 476 Bộ luật dân sự năm 2005 thì lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng. Tại Quyết định số 2868/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010 của ngân hàng nhà nước quy định mức cho vay cơ bản là 9%/năm, tương đương 0,75%/tháng, 0,75% x 150% = 1,125%/tháng.

[8] Từ ngày 27/4/2013 đến xét xử sơ thẩm 21/9/2020 là 07 năm 04 tháng ( 88 tháng) 25 ngày: 46.500.000 đồng x 1,125%/tháng x 88 tháng 25 ngày = 46.470.925 đồng. Tổng cộng vốn lãi là 46.500.000 đồng + 46.470.925 = 92.970.925 đồng.

[9] Tại phiên tòa Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10] Đương sự còn phải chịu án phí theo quy định;

[11] Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 3 Điều 26, Điều 35, 91, 147, 227, 229 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Căn cứ: Điều 476, 479 Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015 .

Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ quy định về họ, hụi, biêu, phường.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị N.

Buộc bị đơn bà Trần Thị N1 có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn bà Nguyễn Thị N số tiền hụi tổng cộng là 92.970.925 đồng (chín mươi hai triệu chín trăm bảy mươi nghìn chín trăm hai mươi lăm đồng). Trong đó vốn là 46.500.000 đồng và lãi là 46.470.925 đồng.

Kể từ ngày bà Nguyễn Thị N có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án. Lãi suất chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468, nếu không thỏa thuận được thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn bà Trần Thị N1 phải chịu là 4.648.546 đồng (bốn triệu sáu trăm bốn mươi tám nghìn năm trăm bốn mươi sáu đồng).

Bà Nguyễn Thị N được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 2.750.000 đồng (hai triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng) theo biên lai thu số 0000722 ngày 02/01/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Long Mỹ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị N có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 21/9/2020. Bị đơn bà Trần Thị N1 có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại địa phương nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

288
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 150/2020/DS-ST ngày 21/09/2020 về tranh chấp hợp đồng dân sự - hụi

Số hiệu:150/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Long Mỹ - Hậu Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 21/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;