Bản án 150/2019/HS-ST ngày 29/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 150/2019/HS-ST NGÀY 29/05/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 149/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 160/2019/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Bùi Xuân M, sinh năm 1983 tại thành phố Hải Phòng; thường trú: N, phường V, quận K, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Bùi Xuân T, sinh năm 1946 và bà Ngô Thị K, đã chết; bị cáo có 02 người anh ruột, đã chết; có vợ Trần Thị K, sinh năm 1990; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 24/11/2017, Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Bình Dương ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 16 tháng. Ngày 30/8/2018 được miễn chấp hành phần thời gian áp dụng biện pháp xử lý hành chính còn lại; bị tạm giam ngày 07/03/2019; có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Ngô Thanh L, sinh năm: 1975; thường trú: 13/4B khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

- Người làm chứng: Chị Bùi Thị A. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bùi Xuân M là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp và sống lang thang tại khu vực thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Vào lúc 07 giờ ngày 07/03/2019, Bùi Xuân M đi bộ trên đoạn đường D1 thuộc khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Khi đi qua cửa hàng xe máy “T” tại địa chỉ 13/4B, khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương, phát hiện trước cửa tiệm có nhiều xe mô tô, Bùi Xuân M nhìn thấy xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu vàng đen biển số 69F1-385.22 của anh Ngô Thanh L, dựng phía ngoài, đầu xe hướng ra ngoài, đuôi xe hướng vào trong, xe dựng chân chống ngang, trên ổ khóa xe có cắm sẵn chìa khóa. Bùi Xuân M lên xe mô tô biển số 69F1-385.22 ngồi và dùng tay phải vặn mở khóa xe thì đèn bật sáng. Cùng lúc này, Bùi Xuân M dùng chân đẩy chân chống xe máy và đề xe nổ máy để tẩu thoát nhưng bị bà Bùi Thị A phát hiện truy hô. Anh L từ trong nhà chạy ra đạp vào người làm Bùi Xuân M ngã khỏi xe và bị bắt người phạm tội quả tang.

Vật chứng thu giữ: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu vàng đen biển số 69F1-385.22, số khung 171HY193041, số máy E3T6E280139 đã trả lại cho bị hại.

Theo kết luận định giá tài sản số 65/BB.ĐG ngày 13/3/2019 của Hội đồng định giá thị xã Dĩ An kết luận như sau: Xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu vàng đen biển số 69F1-385.22, số khung: 171HY193041, số máy E3T6E280139 trị giá 9.000.000 đồng.

Tại cáo trạng số: 176/CT - VKS ngày 15 tháng 05 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Bùi Xuân M về tội trộm cắp tài sản chưa đạt (chưa đạt) theo quy định tại khoản 1 Điều 173 và Điều 15 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 15; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Bùi Xuân M mức án từ 07 tháng đến 10 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Ngô Thanh L đã nhận lại chiếc mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu vàng đen biển số 69F1-385.22 và không có yêu cầu gì khác nên về trách nhiệm dân sự Viện kiểm sát không đặt ra.

Ti phiên tòa, bị cáo Bùi Xuân M thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình; không tranh luận, đối đáp gì và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Khoảng 7 giờ 00 ngày 07/3/2019 tại địa chỉ 13/4B khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương, Bùi Xuân M lên xe mô tô biển số 69F1-385.22 ngồi, dùng tay phải vặn mở khóa xe và đề xe máy nổ để tẩu thoát thì bị bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

[2] Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:”

[3] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng tại cơ quan điều tra, biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang. Như vậy, hành vi của bị cáo Bùi Xuân M lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại trị giá 9.000.000đ. Bị cáo cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì nguyên nhân ngoài ý muốn của bị cáo. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành Tội trộm cắp tài sản (chưa đạt) theo quy định tại khoản 1 Điều 173, Điều 15 Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng số 176/CT-VKS ngày 15 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An và luận tội của Kiểm sát viên truy tố đối với bị cáo Bùi Xuân M là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Xét tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện tuy là ít nghiêm trọng nhưng đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải; tài sản đã thu hồi trả lại cho bị hại; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Về nhân thân: Bị cáo là người không có nghề nghiệp ổn định. Ngày 24/11/2017, Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Bình Dương ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 16 tháng.

Ngày 30/8/2018 được miễn chấp hành phần thời gian áp dụng biện pháp xử lý hành chính còn lại.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt là 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu vàng đen biển số 69F1-385.22, số khung 171HY193041, số máy E3T6E280139 đã trả lại cho bị hại. Bị hại không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Từ phân tích trên, Hội đồng xét xử quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với các bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[10] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Quá trình điều tra, bị hại, người làm chứng không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[12] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Xuân M phạm tội trộm cắp tài sản (chưa đạt).

Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 15; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Bùi Xuân M 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/3/2019.

2. Án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Bùi Xuân M phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 150/2019/HS-ST ngày 29/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:150/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;