Bản án 150/2019/HS-ST ngày 08/05/2019 về tội cướp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 150/2019/HS-ST NGÀY 08/05/2019 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 8 tháng 5 năm 2019, tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 190/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1639/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 4 năm 2019 đối với các bị cáo:

1/Lê Hoàng M, giới tính: nam; sinh ngày 11 tháng 01 năm 1993 tại TP.Hồ Chí Minh; Thường trú: Tổ 2, Ấp 7, xã TH, huyện HQ, tỉnh BP; Chỗ ở: 81/4 Đường số 13, khu phố 6, phường BTT, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: thợ hồ; trình độ văn hóa: 05/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Hùng (chết) và bà: LTP; Có vợ và 01 con sinh năm 2014; tiền sự: Không; Tiền án:

Ngày 26/08/2014, bị Tòa án nhân dân TP.Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” (bản án số 350/HSST), chấp hành xong ngày 19/3/2017.

Nhân thân:

Ngày 24/5/2011, bị Tòa án nhân dân Quận BT xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (bản án số 122/2011/HSST).

Ngày 14/9/2011, bị Tòa án nhân dân Quận BT xử phạt 06 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”, tổng hợp hình phạt của cả hai tội là 01 năm 03 tháng tù (bản án số 211/2011/HSST).

Tháng 9/2008, bị Công an Quận H xử lý vi phạm hành chính về tội “Trộm cắp tài sản” Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 13/6/2018 (Có mặt).

2/Nguyễn Hoàng M, giới tính: nam; sinh ngày 31 tháng 3 năm 1995 tại TP. Hồ Chí Minh; Nơi thường trú: 27/4 đường 836, khu phố 3, phường PH, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 02/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn K (chết) và bà: Nguyễn Thị Thu H; Có vợ và chưa có con; tiền sự: không;

Tiền án:

Ngày 23/7/2014, bị Tòa án nhân dân Quận H xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (bản án số 82/2014/HSST). Chấp hành xong ngày 23/6/2015.

Nhân thân:

Ngày 10/8/2012, bị Tòa án nhân dân Quận C xử phạt 05 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (bản án số 132/2012/HSST).

Ngày 30/5/2013, bị Tòa án nhân dân Quận H xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (bản án số 62/2013/HSST).

Ngày 17/12/2015, bị Tòa án nhân dân Quận H ra Quyết định đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng.

Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 13/6/2018. (Có mặt).

3/Đoàn Văn Đ, giới tính: nam; Sinh ngày 07 tháng 9 năm 1996 tại TP. Hồ Chí Minh; Thường trú: Ấp 1, xã Đồng N, huyện HQ, tỉnh BP; Nơi cư trú: đường số 8, khu phố 1, phường Bình Trưng Đ, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh (đối diện nhà số 54); nghề nghiệp: thợ xăm hình; trình độ văn hóa: 0/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Không rõ và bà: Đoàn Thị U; Có vợ (chưa đăng ký kết hôn); tiền án,tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 10/2/2015, bị Tòa án nhân dân Quận M ra Quyết định đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 20 tháng theo quyết định số 36/QĐ-TA.

Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 13/6/2018 (Có mặt).

Bị hại: Chị F Manon Fanny A, sinh năm: 1992; quốc tịch: Pháp

Chỗ ở: 198/16 LP, phường LP, Quận C, Tp.Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 12/6/2018, khi nhìn thấy chị F Manon Fanny A cùng bạn là anh TH Bonnert ngồi uống bia tại quán Beer Club OXY. Nguyễn Hoàng M đã chủ động đến làm quen, mời bia cả hai người, lúc đó Minh phát hiện chị F Manon Fanny A có mang theo 01 chiếc ví nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản.

Đồng thời, Lê Hoàng M và Đoàn Văn Đ cùng là bạn của Nguyễn Hoàng M cũng đến quán uống bia nhưng ngồi tại một chiếc bàn khác gần đó, Lê Hoàng M cũng nhìn thấy chiếc ví trên bàn của chị F nên chỉ cho Đ và rủ Đ chiếm đoạt.

Đến khoảng 01 giờ ngày 13/6/2018, khi chị F Manon Fanny A và anh TH Bonnert cùng nhau ra về, Nguyễn Hoàng M điều khiển xe mô tô hiệu Dylan biển số 52M9-7557 nhìn thấy Lê Hoàng M và Đoàn Văn Đ điều khiển xe mô tô Yamaha Exciter biển số 59L1-319.97 cũng đi theo sau xe chị F nên cả 3 đã rủ nhau tiếp cận chị F để chờ cơ hội thực hiện việc chiếm đoạt tài sản. Nguyễn Hoàng M cho xe chạy lên ngang hàng với xe chị F giả vờ rủ cả hai đi ăn khuya, chị F và anh TH đồng ý. Nguyễn Hoàng M chạy trước dẫn đường, chị F chạy theo sau, còn Đức chở Lê Hoàng M chạy theo sau cùng. Khi vừa xuống chân cầu Giồng Ông Tố thuộc tổ 29, khu phố 3, phường AP, Quận H, lợi dụng đường vắng, Nguyễn Hoàng M dừng xe khiến chị F cũng dừng xe theo. Nguyễn Hoàng M liền xuống xe lao tới dùng tay đánh vào mặt của chị F làm chị và anh TH ngã xuống đường. Anh TH đứng lên xông đến định ngăn cản thì bị đồng bọn của Minh là Lê Hoàng M, Đoàn Văn Đ đuổi đánh khiến anh TH bỏ chạy qua bên kia cầu. Lúc này, chị F thấy vậy rút chìa khóa xe ném vào bụi cỏ gần đó nên Nguyễn Hoàng M đã dùng tay giật bung yên xe và lấy được một chiếc ví cầm tay hiệu Vascara của chị F để ở cốp xe rồi điều khiển xe chở Lê Hoàng M về tiệm Internet MH, còn Đ điều khiển xe của mình quay về quán Beer Club OXY. Tại tiệm Internet, Nguyễn Hoàng M, Lê Hoàng M kiểm tra ví thấy có số tiền 3.500.000 đồng, 20Bath Thái Lan, một điện thoại di động hiệu Iphone 6Plus màu vàng, một chiếc vòng đeo tay bằng kim loại và một số giấy tờ cá nhân mang tên chị F. Nguyễn Hoàng M đưa Lê Hoàng M 2.000.000 đồng nhờ Minh đưa cho Đức 1.000.000 đồng riêng Nguyễn Hoàng M giữ 1.500.000 đồng cùng chiếc điện thoại di động, đối với chiếc ví và số tài sản còn lại Minh ném lên nóc nhà tiệm Internet. Sau đó, Lê Hoàng M đến gặp Đ và đưa lại cho Đ 1.000.000 đồng. Các bị cáo đã tiêu xài hết số tiền cướp được, chỉ có Đoàn Văn Đ là còn lại 500.000 đồng. Ngay khi sự việc xảy ra, chị F và anh TH đã đến công an phường AP, Quận H trình báo. Khi được mời về trụ sở làm việc cả 3 đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đồng thời Công an Quận H đã lập biên bản thu giữ một số vật chứng của vụ án.

* Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6Plus, màu vàng, số Imei: 354383068941808.

- 01 chiếc ví hiệu Vascara màu đen.

- 01 passport số 12AK56619 mang tên F Manon Fanny A.

- 01 giấy đăng ký xe mô tô hiệu Vespa biển số: 59C1-200.60 mang tên Lê Thị Ngọc Mai và 04 thẻ ngân hàng (HSBC, Techcombank, Nam Á, UOB.Napas).

- 01 xe mô tô hiệu Honda Dylan, biển số 52M9-7557, số máy: HIKF03E0027878, số khung: ZDCKF05A02F000191 thu giữ của Nguyễn Hoàng M, M khai mượn xe này của một người tên H1 (không rõ lai lịch) để sử dụng. Quá trình xác minh, được biết chiếc xe trên là do anh Nguyễn Văn P (sinh năm: 1996, HKTT: 165/28A3 VT, Phường T, Quận S) đứng tên chủ đăng ký xe. Qua làm việc, anh P có trình bày đã bán xe này cho anh Trịnh Tấn T thông qua hợp đồng Ủy quyền công chứng tại Văn phòng công chứng ĐS ngày 29/6/2015 tuy nhiên anh T sau đó cũng đã bán lại chiếc xe cho một người khác (không rõ nhân thân, lai lịch). Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP.Hồ Chí Minh đã đăng công báo để tìm chủ sở hữu của chiếc xe trên (số báo 3834 ngày 26/11/2018) - 01 chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, biển số 59L1-319.97 thu giữ của Đoàn Văn Đ. Kết quả giám định đã xác định: Biển số xe mô tô trên là giả, không xác định được số khung, số máy (Kết luận giám định số 7050/KLGĐ-X) ngày 10/7/2018 và số 856/KLGĐ-TT) ngày 20/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Tp. Hồ Chí Minh). Qua làm việc, Đức khai mua chiếc xe trên từ một người bạn tên Tân không rõ nhân thân, lai lịch.

- Số tiền 500.000 đồng là tiền của chị F bị chiếm đoạt mà Lê Hoàng M tiêu xài còn lại hiện thu giữ tại Kho bạc Nhà nước Quận M.

- Số tiền 1.500.000 đồng do Nguyễn Thị Thu H (mẹ ruột của Nguyễn Hoàng M) nộp khắc phục hậu quả cho bị cáo Nguyễn Hoàng M hiện thu giữ tại Kho bạc Nhà nước Quận M.

* Về Dân sự:

Chị F Manon Fanny A đã nhận lại tài sản (Bl 172-173) và không có yêu cầu bồi thường gì thêm (BL238-239).

Tại Bản cáo trạng số: 136/CT-VKS-P2 ngày 01/4/2019, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Lê Hoàng M về tội “Cướp tài sản” theo điểm h khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); các bị cáo Nguyễn Hoàng M, Đoàn Văn Đ về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 168 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trình bày lời luận tội và đề nghị xử phạt:

Bị cáo Lê Hoàng M 07-08 năm tù về tội “Cướp tài sản” theo điểm h khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Nguyễn Hoàng M 04-05 năm tù, Đoàn Văn Đ 03-04 năm tù về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 168 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Đồng thời, đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Hoàng M, Lê Hoàng M, Đoàn Văn Đ đã thừa nhận hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Bị hại: Chị F Manon Fanny A đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường gì thêm và vắng mặt tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đánh giá hành vi, quyết định tố tụng:

Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đúng. Các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Đánh giá hành vi của các bị cáo:

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, qua xét hỏi các bị cáo Nguyễn Hoàng M, Lê Hoàng M, Đoàn Văn Đ đều đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố đối với các bị cáo.

Căn cứ vào lời khai nhận tội của các bị cáo Nguyễn Hoàng M, Lê Hoàng M, Đoàn Văn Đ là phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, người liên quan, cùng với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở pháp lý kết luận:

Khoảng 01 giờ ngày 13/6/2018, khi chị F Manon Fanny A và anh TH Bonnert cùng rời quán Beer Club OXY ra về, Nguyễn Hoàng M điều khiển xe mô tô hiệu Dylan biển số 52M9-7557 nhìn thấy Lê Hoàng M và Đoàn Văn Đ điều khiển xe mô tô Yamaha Exciter biển số 59L1-319.97 cũng đi theo sau xe chị F nên cả 3 đã rủ nhau tiếp cận chị F để chờ cơ hội thực hiện việc chiếm đoạt tài sản. Nguyễn Hoàng M cho xe chạy lên ngang hàng với xe chị F giả vờ rủ cả hai đi ăn khuya, chị F và anh TH đồng ý. Nguyễn Hoàng M chạy trước dẫn đường, chị F chạy theo sau, còn Đ chở Lê Hoàng M chạy theo sau cùng. Khi vừa xuống chân cầu Giồng Ông Tố thuộc tổ 29, khu phố 3, phường AP, Quận H, lợi dụng đường vắng, Nguyễn Hoàng M dừng xe khiến chị F cũng dừng xe theo. Nguyễn Hoàng M liền xuống xe lao tới dùng tay đánh vào mặt của chị F làm chị và anh TH ngã xuống đường. Anh TH đứng lên xông đến định ngăn cản thì bị đồng bọn của Minh là Lê Hoàng M, Đoàn Văn Đ đuổi đánh khiến anh TH bỏ chạy qua bên kia cầu. Lúc này, chị F thấy vậy rút chìa khóa xe ném vào bụi cỏ gần đó nên Nguyễn Hoàng M đã dùng tay giật bung yên xe và lấy được một chiếc ví cầm tay hiệu Vascara của chị F để ở cốp xe rồi điều khiển xe chở Lê Hoàng M về tiệm Internet MH, còn Đ điều khiển xe của mình quay về quán Beer Club OXY. Tại tiệm Internet, Nguyễn Hoàng M, Lê Hoàng M kiểm tra ví thấy có số tiền 3.500.000 đồng, 20Bath Thái Lan, một điện thoại di động hiệu Iphone 6Plus màu vàng, một chiếc vòng đeo tay bằng kim loại và một số giấy tờ cá nhân mang tên chị F. Nguyễn Hoàng M đưa Lê Hoàng M 2.000.000 đồng nhờ Minh đưa cho Đức 1.000.000 đồng còn lại Nguyễn Hoàng M giữ 1.500.000 đồng cùng chiếc điện thoại di động, còn chiếc ví và số tài sản còn lại Minh ném lên nóc nhà tiệm Internet. Lê Hoàng M đến gặp Đ và đưa lại cho Đ 1.000.000 đồng. Sau khi chia tiền, các bị cáo đã tiêu xài hết số tiền trên, chỉ có Đoàn Văn Đ là còn lại 500.000 đồng. Theo Kết luận định giá tài sản số 5020/KL-HĐĐGTS ngày 26/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc UBND Tp. Hồ Chí Minh kết luận: 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus, màu vàng và 20 Bath Thái trị giá là 5.080.000 đồng, riêng chiếc Vascara và lắc đeo tay bằng kim loại Hội đồng định giá đã từ chối định giá. Tổng trị giá tài sản bị chiếm đoạt là 8.580.000 đồng.

Với hành vi dùng vũ lực tấn công bị hại nhằm chiếm đoạt tài sản của các bị cáo, xét thấy cáo trạng của Viện kiểm sát thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Nguyễn Hoàng M, Lê Hoàng M, Đoàn Văn Đ về tội “Cướp tài sản” là hoàn toàn phù hợp. Bị cáo Lê Hoàng M đã có tiền án chưa được xóa tích. Lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại khoản 2 Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) do đó bị cáo bị truy tố và đưa ra xét xử theo khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự là có cơ sở.

Hành vi của các bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp, quyền được bảo đảm an toàn về sức khỏe, thân thể của cá nhân được pháp luật bảo vệ mà còn ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Do đó, cần xử phạt các bị cáo với mức án nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo:

Tại Cơ quan điều tra và phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

Bị cáo Nguyễn Hoàng M đã có 01 tiền án: Ngày 23/7/2014, bị Tòa án nhân dân Quận H xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (bản án số 82/2014/HSST), chấp hành xong ngày 23/6/2015, bị cáo chưa được xóa án tích nên lần phạm tội mới này của bị cáo thuộc trường hợp “Tái phạm” theo quy định tại khoản 1 Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) do đó cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[4] Về trách nhiệm dân sự: Chị F Manon Fanny A đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường gì thêm và vắng mặt tại phiên tòa do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng:

+Đối với 01 xe mô tô hiệu Honda Dylan, biển số 52M9-7557, số máy: HIKF03E0027878, số khung: ZDCKF05A02F000191 thu giữ của Nguyễn Hoàng M, Minh khai mượn xe này của một người tên Hùng (không rõ lai lịch) để sử dụng. Quá trình xác minh, được biết chiếc xe trên là do anh Nguyễn Văn P (sinh năm: 1996, HKTT: 165/28A3 VT, Phường T, Quận S) đứng tên chủ đăng ký xe. Qua làm việc, anh Phương có trình bày đã bán xe này cho anh Trịnh Tấn T thông qua hợp đồng Ủy quyền công chứng tại Văn phòng công chứng ĐS ngày 29/6/2015 tuy nhiên anh Tài sau đó cũng đã bán lại chiếc xe cho một người khác (không rõ nhân thân, lai lịch). Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP.Hồ Chí Minh đã đăng công báo để tìm chủ sở hữu của chiếc xe song đến nay vẫn chưa có kết quả. Bị cáo Nguyễn Hoàng M đã sử dụng chiếc xe trên làm phương tiện phạm tội do đó cần giao cơ quan Thi Hành Án Dân sự tiếp tục thực hiện việc đăng công báo để tìm chủ sở hữu, trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày đăng công báo nếu không tìm được chủ sở hữu thì tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

+Đối với 01 xe mô tô hai bánh hiệu Yamaha Exciter biển số 59L1-319.97 (không kiểm tra được số khung, số máy) thu giữ của bị cáo Đoàn Văn Đ. Kết quả giám định đã xác định: Biển số xe mô tô trên là giả, không xác định được số khung, số máy (Kết luận giám định số 7050/KLGĐ-X) ngày 10/7/2018 và số 856/KLGĐ-TT) ngày 20/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Tp. Hồ Chí Minh). Qua làm việc, Đức khai mua chiếc xe trên từ một người bạn tên T không rõ nhân thân, lai lịch. Chiếc xe trên, bị cáo Đ đã sử dụng làm phương tiện phạm tội do đó cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

+Đối với số tiền 500.000 đồng là tiền của chị F bị chiếm đoạt, mà bị cáo Lê Hoàng M tiêu xài còn lại hiện thu giữ tại Kho bạc Nhà nước Quận M (Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 14/8/2018), xét đây là tiền do bị cáo phạm tội mà có nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

+Đối với số tiền 1.500.000 đồng do bà Nguyễn Thị Thu H (mẹ ruột của Nguyễn Hoàng M) nộp để khắc phục hậu quả cho bị cáo Minh hiện thu giữ tại Kho bạc Nhà nước Quận M (Giấy nộp tiền vào tài khoản số 39490905977500000) nghĩ nên tiếp tục tạm giữ để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án phí của bị cáo Nguyễn Hoàng M.

[6] Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm h khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Tuyên bố bị cáo Lê Hoàng M phạm tội “Cướp tài sản”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 168; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Nguyễn Hoàng M, Đoàn Văn Đ. Riêng bị cáo Nguyễn Hoàng M còn áp dụng thêm điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Hoàng M, Đoàn Văn Đ phạm tội “Cướp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Lê Hoàng M 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/6/2018.

Bị cáo Nguyễn Hoàng M 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/6/2018.

Bị cáo Đoàn Văn Đ 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/6/2018.

- Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

+Giao cơ quan Thi Hành Án Dân sự tiếp tục thực hiện việc đăng công báo để tìm được chủ sở hữu đối với 01 xe mô tô hiệu Honda Dylan, biển số 52M9- 7557, số máy: HIKF03E0027878, số khung: ZDCKF05A02F000191. Trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngày đăng công báo, nếu không tìm được chủ sở hữu thì tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

+Tịch thu nộp ngân sách nhà nước đối với: 01 chiếc xe mô tô hai bánh hiệu Yamaha Exciter biển số 59L1-319.97; số tiền 500.000 đồng hiện thu giữ tại Kho bạc Nhà nước Quận M (Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 14/8/2018) + Tiếp tục tạm giữ số tiền 1.500.000 đồng (hiện đang tạm giữ tại Kho bạc Nhà nước Quận M - Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 21/12/2018) để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án phí của bị cáo Nguyễn Hoàng M.

(Biên bản giao nhận tang tài vật số: 271/19 ngày 09/5/2019 của Cục thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh)

- Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 13/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Căn cứ Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 150/2019/HS-ST ngày 08/05/2019 về tội cướp tài sản

Số hiệu:150/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;