TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 149/2023/HS-ST NGÀY 31/05/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Vào ngày 31 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 104/2023/TLST-HS ngày 11 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 138/2023/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2023 đối với các bị cáo:
1. Hà Hải T, sinh năm 1986 tại tỉnh BL; thường trú: Khóm 7, Phường 3, thành phố BL, tỉnh BL; tạm trú: T1/25m, khu phố BT2, phường TG, thành phố TA, tỉnh BD; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ học vấn: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn C (năm sinh không rõ) và bà Nguyễn Kim T (đã chết); chưa vợ, con; tiền sự, tiền án: Không. Nhân thân: Ngày 06/7/2017, Công an Phường 3, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu xử phạt hành chính 750.000 đồng. Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/7/2022 cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.
2. Trần Hận Châu G, sinh năm 1996 tại tỉnh BD; thường trú: Tổ 3, khu phố C, phường TP, thành phố TU, tỉnh BD; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Minh H, sinh năm 1971 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1970; chưa vợ, con; tiền sự, tiền án: Không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/3/2023 cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.
- Người bào chữa cho bị cáo Hà Hải T: Ông Trần Thanh A, Giám đốc Công ty Luật TNHH Một thành viên CN; địa chỉ: Số 2/1, khu phố BQ, phường BC, thành phố TA, tỉnh BD; có mặt.
- Người làm chứng:
1. Bà Hà Thị Bích V, sinh năm 1987; vắng mặt.
2. Bà Nguyễn Kim N, sinh năm 1962; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Các bị cáo Hà Hải T và Trần Hận Châu G là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, loại Methamphetamin. Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 30/7/2022, bị cáo T đang ở phòng trọ tại địa chỉ T1/25M khu phố BT2, phường TG, thành phố TA, tỉnh BD thì gọi vào số điện thoại 0374332xx cho đối tượng T để hỏi mua 01 ma túy với giá 500.000 đồng thì T đồng ý. Bị cáo T đi bộ ra phía ngoài dãy trọ khoảng 200 mét đến vườn cao su để dưới gốc trụ điện số tiền 500.000 đồng rồi gọi cho T biết và đi về phòng trọ ngồi đợi.
Cũng thời điểm này, bị cáo G đến phòng trọ của bị cáo T chơi. Khi T liên lạc với bị cáo Thanh nói ra nhận gói ma túy thì bị cáo T nhờ bị cáo G đi ra gốc trụ điện trong vườn cao su lấy 01 ma túy mang về để cả hai cùng sử dụng. Khi bị cáo G mang 01 túi ma túy về phòng trọ thì bị cáo T nói với bị cáo G bỏ một phần vào bộ dụng cụ để sử dụng. Số ma túy còn lại trong túi nylon thì bị cáo G để lại trên nền gạch phòng trọ. Bị cáo T dùng hột quẹt gas đốt nóng hàn kín túi nylon lại để cất giấu trên gác. Khoảng 11giờ 40 phút ngày 31/7/2022, bị cáo G tiếp tục đến phòng trọ của bị cáo T để sử dụng ma túy. Bị cáo T đưa cho bị cáo G bộ dụng cụ sử dụng ma túy bên trong đã đổ sẵn ma túy đá để cả hai cùng sử dụng.
Đến khoảng 14 giờ 00 phút cùng ngày, Công an phường Thuận Giao tiến hành kiểm tra hành chính phòng trọ của bị cáo T tại địa chỉ T1/25M khu phố BT2, phường TG, thành phố TA, tỉnh BD thì phát hiện bị cáo T và bị cáo G đang ở trong phòng và có biểu hiện nghi vấn sử dụng trái phép chất ma túy nên kiểm tra. Quá trình kiểm tra, Công an phường Thuận giao phát hiện 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng trái phép chất ma túy đá tại phía góc trái phòng trọ nên tiến hành thu giữ. Bị cáo T khai nhận trên gác phòng trọ còn cất giấu 01 hộp gỗ hình chữ nhật kích thước 11,5cm x 20cm x10cm bên trong có 01 túi nylon chứa ma túy nên giao nộp cho lực lượng Công an phường Thuận Giao.
Kết luận giám định số 378/KL-KTHS (MT) ngày 04/8/2022 của Phòng kỹ thuật Hình sự, Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng trong 01 (Một) túi nylon được hàn kín một đầu, khối lượng/trọng lượng:1,2789 gam là ma túy, loại Methamphetamine.
Cáo trạng số 115/CT-VKS.TA ngày 10/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Hà Hải T về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 255 và điểm c khoản 1 Điều 249; truy tố bị cáo Trần Hận Châu G về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 250 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hà Hải T phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bị cáo Trần Hận Châu G phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật Hình sự.
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Về hình phạt:
+ Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm a khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Hà Hải T mức hình phạt từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm 06 tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
+ Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 250 và điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Trần Hận Châu G mức hình phạt từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù.
- Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào các điều 46, 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử:
+ Tịch thu tiêu hủy các vật chứng gồm: 01 (Một) bì thư đã niêm phong, ghi số vụ 378/KL-PC09 mẫu vật hoàn lại sau giám định là ma túy loại Methamphetamine, trọng lượng 1,1818 gam; 01 (Một) bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy; 01 (Một) hộp gỗ hình chữ nhật màu đỏ, kích thước 11,5cmx20cmx10cm và 01 sim số 09686868xx.
+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (Một) điện thoại di động hiệu Oppo A15S màu xanh dương, số IMEI1: 86256200291992, số IMEI2: 862562050291984.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Hà Hải T và Trần Hận Châu G thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng truy tố.
Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo Hà Hải T trình bày: Thống nhất với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, khung hình phạt và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng đề nghị Hội đồng xét xử như sau: Bị cáo Hà Hải T thuộc gia đình nghèo, cả cha và mẹ đều mất sớm, trình độ học vấn thấp, nhận thức pháp luật hạn chế. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của pháp luật, tích cực rèn luyện, tu dưỡng sớm trở thành công dân có ích cho xã hội.
Trong phần trình bày lời nói sau cùng, các bị cáo đã nhận thấy hành vi của bản thân là phạm tội, ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng không khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2] Về tội danh và khung hình phạt: Lời khai của các bị cáo thống nhất với nhau về quá trình thực hiện hành vi phạm tội, phù hợp với kết luận giám định và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, đủ căn cứ kết luận:
Từ ngày 30/7/2022 đến ngày 31/7/2022, tại địa chỉ T1/25M khu phố Bình Thuận 2, phường Thuận Giao, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, bị cáo Hà Hải T nhờ bị cáo Trần Hận Châu G lấy 01 túi nylon hàn kín chứa ma túy mang về phòng trọ của bị cáo T để cùng sử dụng. Bị cáo T đã có hành vi sử dụng địa điểm do mình quản lý, cung cấp ma túy, bộ dụng cụ để sử dụng ma túy để cho bị cáo G hai lần sử dụng trái phép chất ma túy. Ngoài ra, bị cáo Hà Hải T còn thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 01 túi nylon hàn kín chứa 1,2789 gam ma túy, loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng thì bị phát hiện, bắt giữ.
Hành vi của các bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật hình sự nhưng do thái độ coi thường pháp luật nên vẫn cố ý thực hiện.
Hành vi của bị cáo Hà Hải T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “ Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm a khoản 2 Điều 255 của Bộ luật hình sự.
Hành vi của bị cáo Trần Hận Châu G đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 250 của Bộ luật hình sự.
Như vậy đủ căn cứ kết luận cáo trạng truy tố các bị cáo Hà Hải T và Trần Hận Châu G là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại các điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[5] Căn cứ quyết định hình phạt: Xét thấy các bị cáo là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy nên cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn và nghiêm khắc mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục các bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.
[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào các điều 46 và 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử thấy:
Đối với các vật chứng gồm: 01 (Một) bì thư đã niêm phong, ghi số vụ 378/KL- PC09 mẫu vật hoàn lại sau giám định là ma túy loại Methamphetamine, trọng lượng 1,1818 gam; 01 (Một) bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy; 01 (Một) hộp gỗ hình chữ nhật màu đỏ, kích thước 11,5cmx20cmx10cm và 01 sim số 09686868xx là công cụ phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy.
Đối với vật chứng là 01 (Một) điện thoại di động hiệu Oppo A15S màu xanh dương, số IMEI1: 86256200291992, số IMEI2: 862562050291984 là công cụ phạm tội còn giá trị sử dụng nên Hội đồng xét xử tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
[7] Về kiến nghị:
Hành vi của người đàn ông tên T bán ma túy cho bị cáo Hà Hải T vào ngày 30/7/2022 đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Do đó, kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương tiếp tục xác minh, xử lý đối với người đàn ông tên T theo quy định của pháp luật.
Hành vi tàng trữ 01 bộ dụng cụ sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Hà Hải T đã bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An xử phạt hành chính với số tiền 1.750.000 đồng theo điểm c khoản 2 Điều 23 Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021, Hội đồng xét xử thấy phù hợp pháp luật.
[8] Về án phí sơ thẩm: Các bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Các điều 106, 135, 136, 260, 268, 269, 298, 299, 331 và 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm c khoản 1 Điều 250; điểm a khoản 2 Điều 255; các điều 46, 47 và 55 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hà Hải T phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bị cáo Trần Hận Châu G phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt:
+ Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm a khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51và Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Hà Hải T mức hình phạt 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội ‘Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 08 (Tám) năm tù về tội “ Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, tổng hợp hình phạt chung của cả hai tội là 09 (chín) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/7/2022.
+ Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 250 và điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Trần Hận Châu G 03 (Ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/3/2023.
3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào các điều 46, 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử:
+ Tịch thu tiêu hủy các vật chứng gồm: 01 (Một) bì thư đã niêm phong, ghi số vụ 378/KL-PC09 mẫu vật hoàn lại sau giám định là ma túy loại Methamphetamine, trọng lượng 1,1818 gam; 01 (Một) bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy; 01 (Một) hộp gỗ hình chữ nhật màu đỏ, kích thước 11,5cmx20cmx10cm và 01 sim số 09686868xx.
+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (Một) điện thoại di động hiệu Oppo A15S màu xanh dương, số IMEI1: 86256200291992, số IMEI2: 862562050291984.
(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 29/3/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an thành phố Thuận An và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương) 4. Về án phí sơ thẩm: Các bị cáo Hà Hải T và Trần Hận Châu G mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 149/2023/HS-ST về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 149/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/05/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về