Bản án 149/2021/HS-PT ngày 09/06/2021 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 149/2021/HS-PT NGÀY 09/06/2021 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 6 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 120/2021/TLPT-HS ngày 26/04/2021 đối với bị cáo Lê Đình N về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2021/HS-ST ngày 05/03/2021 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Lê Đình N; Sinh năm: 1987, tại tỉnh Bắc Giang; nơi cư trú: Thôn T, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 12/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Đình C, sinh năm 1957 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1957; bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Thúy H, sinh năm 1986 và có 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không có; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Anh Hà Văn S, sinh năm 1984; địa chỉ: Thôn L, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 20 giờ 00 phút, ngày 05/10/2020, Lê Đình N đi nhậu về thì thấy có chiếc xe ô tô mang biển kiểm soát 47A - 008.85 của anh Hà Văn S đang đậu trước kho của nhà mình. N bực tức vì xe đậu trước nhà nên dùng tay, chân đá, nhặt khúc gỗ ở sân đập vào xe ô tô. Khi nghe tiếng ồn ào, thì anh Hà Văn S, anh Nguyễn Văn N1, anh Trần Văn T, chị Lê Thị T1, chị Hà Thanh T2 và chị Nguyễn Thị Thúy H ra xem. Lúc này, anh S và N xảy ra to tiếng, cãi nhau qua lại, anh S chạy xe qua nhà đối diện nhà N đậu, giữa N và anh S tiếp tục to tiếng với nhau, N bực tức nên về nhà lấy dao, cây gỗ chạy ra. Thấy vậy, chị Nguyễn Thị Thúy H can ngăn nhưng N vẫn ném khúc gỗ về phía xe làm bể kính chắn gió phía sau bên trái của xe ô tô.

Tại Kết luận định giá tài sản số 63/KL-HĐĐGTS ngày 14/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện K, tỉnh Đắk Lắk kết luận: Tổng giá trị hư hỏng của xe ô tô mang Biển kiểm soát 47A - 008.85 được xác định là 6.500.000 đồng.

Quá trình điều tra bị cáo đã bồi thường cho người bị hại anh Hà Văn S số tiền là 10.000.000 đồng, anh S đã bãi nại cho bị cáo và không yêu cầu gì thêm.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2021/HS-ST ngày 05/3/2021 của Tòa án nhân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Lê Đình N phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 178; điểm b, h, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự: Xử phạt Lê Đình N 06 (sáu) tháng tù.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 10/3/2021 bị cáo Lê Đình N có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo hoặc hình phạt cải tạo không giam giữ.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và đã khai nhận toàn bộ hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung vụ án đã được tóm tắt nêu trên.

Qua tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Lê Đình N về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”, theo khoản 1 Điều 178 của Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, mức hình phạt mà 06 tháng tù mà bản án sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc so với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, vì: Bị cáo đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người bị hại và bị hại đã có đơn bãi nại xin giảm hình phạt; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo có công với cách mạng. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, h, i, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó, không cần thiết phải cách ly bị cáo với xã hội, mà cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự; chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm về hình phạt.

Áp dụng khoản 1 Điều 178; các điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lê Đình N 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng khoan hồng, tự cải tạo ở ngoài xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 20 giờ 00 phút, ngày 05/10/2020, khi đi chơi về thì bị cáo Lê Đình N thấy chiếc xe ô tô mang biển kiểm soát 47A - 008.85 của anh Hà Văn S đậu trước nhà của mình, bị cáo bực tức nên đã dùng tay, chân và gậy gỗ đập xe của anh S, thì giữa bị cáo và anh S xảy ra xô xát và cãi nhau, bị cáo tiếp tục dùng cây gỗ ném về phía xe ô tô làm bể kính chắn gió phía sau bên trái của xe. Hậu quả làm cho xe ô tô bị hư hỏng, thiệt hại trị giá là 6.500.000 đồng. Do đó, bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Lê Đình N về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo khoản 1 Điều 178 của Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp lý, đúng người, đúng tội.

[2] Đối với kháng cáo của bị cáo Lê Đình N, Hội đồng xét xử xét thấy: Bản án sơ thẩm xử phạt hình phạt tù và buộc cách ly bị cáo với xã hội là có phần nghiêm khắc so với tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra, bởi lẽ: Sau khi phạm tội bị cáo đã tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người bị hại và được bị hại bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ rõ sự ăn năn hối cải; gia đình bị cáo có công với Cách mạng, mẹ đẻ của bị cáo là bà Nguyễn Thị L được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến sĩ giải phóng Hạng Ba. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xét thấy, bị cáo có nhân thân tốt và có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết phải cách ly bị cáo với xã hội mà áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, để bị cáo được tự cải tạo ngoài xã hội dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương và gia đình là phù hợp, như vậy cũng đảm bảo việc cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành một công dân tốt. Do đó, cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm về hình phạt. Hiện tại bị cáo làm nghề nông, thu nhập không ổn định, hoàn cảnh bị cáo khó khăn, nên cần miễn việc khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

[3] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận, nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ: Điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm đ khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Đình N, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2021/HS-ST ngày 05/3/2021 của Tòa án nhân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt.

Tuyên bố bị cáo Lê Đình N phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.

[2] Áp dụng: Khoản 1 Điều 178; các điểm b, h, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Đình N 01 (một) năm 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày Uỷ ban nhân dân xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Lê Đình N cho Ủy ban nhân dân xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk để giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

[3] Về án phí: Áp dụng Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lê Đình N không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 149/2021/HS-PT ngày 09/06/2021 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản

Số hiệu:149/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;