TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 149/2020/HSST NGÀY 31/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 31 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân TP. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 143/2020/HSST ngày12/11/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 228/2020/QĐXXST-HS ngày 18/12/2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lương Chí H, sinh năm 1996 tại TP. Quy Nhơn; Nơi cư trú: Tổ A, khu vực B, phường Trần Quang Diệu, TP. Quy Nhơn, Bình Định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Lương Văn T (chết) và bà: Nguyễn Thị Kim O, sinh năm 1961; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/8/2020 đến nay, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an TP. Quy Nhơn; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại:
1. Anh Nguyễn Vũ D, sinh năm 1996 (vắng mặt) Nơi cư trú:Thôn MĐ, xã TA, huyện Tây Sơn, Bình Định.
2. Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1966 (vắng mặt) Nơi cư trú: Tổ A, khu vực B, P. Nhơn Bình, Tp. Quy Nhơn, Bình Định.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Lương Thị Mỹ H, sinh năm 1993 (có mặt) Nơi cư trú: Tổ A, khu vực B, P. Trần Quang Diệu, Tp. Quy Nhơn, Bình Định.
2. Chị Lê Thị Mỹ N, sinh năm 1994 (có mặt) Nơi cư trú: Thôn XP, xã PS, huyện Tuy Phước, Bình Định.
- Người làm chứng:
1. Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 2000 (vắng mặt) Nơi ĐKNKTT: Trung Lương 1, An Nghiệp, Tuy An, Phú Yên.
Chỗ ở: đường TVO, P. Nguyễn Văn Cừ, Tp. Quy Nhơn, Bình Định.
2. Anh Lê Huỳnh Minh L, sinh năm 1980 (vắng mặt) Nơi ĐKNKTT: đường THĐ, Tp. Quy Nhơn, Bình Định.
Chỗ ở: Tổ A, khu vực B, P. Quang Trung, Tp. Quy Nhơn, Bình Định.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16 giờ 10 phút ngày 09/8/2020, bị cáo Lương Chí H điều khiển xe mô tô BKS 77S5-9006 đến Công viên thiếu nhi thuộc phường Nguyễn Văn Cừ, TP. Quy Nhơn với mục đích tìm ai có để tài sản sơ hở lấy trộm. Khoảng 17 giờ 10 cùng ngày, anh Nguyễn Vũ D (sinh năm 1996, trú: T A, Tây Sơn, Bình Định) điều khiển xe mô tô Yamaha Exciter màu đỏ đen, BKS 77H1-384.89, có số máy G3D4E838070, số khung 1010JY071642 chở anh Nguyễn Văn N (sinh năm 2000, trú: đường TVO, TP. Quy Nhơn) đến dựng xe cạnh bồn hoa trung tâm của Công viên. Bị cáo H thấy anh D rút chìa khóa xe giấu vào áo đặt trên bãi cát rồi cùng anh V xuống tắm biển nên bị cáo H lén lút lấy chìa khóa rồi quay lại Công viên mở khóa, khởi động và điều khiển xe mô tô 77H1-384.89 đi được khoảng 3 mét thì bị Công an phường Nguyễn Văn Cừ tuần tra phát hiện và khống chế bắt giữ. Qua kiểm tra cốp xe 77H1-384.89, Công an phường Nguyễn Văn Cừ phát hiện bên trong có 01 ví da hiệu M.G.L màu đen chứa 800.000 đồng, CMND số 215330314 của anh Nguyễn Vũ D. Công an phường Nguyễn Văn Cừ đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với bị cáo Lương Chí H, đưa về Trụ sở Công an làm việc.
Quá trình điều tra, bị cáo Lương Chí H còn khai nhận: Vào khoảng 16 giờ ngày 06/7/2020, bị cáo Hòa điều khiển xe 77S5-9006 đến Công viên thiếu nhi ở phường Nguyễn Văn Cừ, TP. Quy Nhơn tìm ai để tài sản sơ hở lấy trộm. Khoảng 16 giờ 45 phút cùng ngày, bà Nguyễn Thị M (sinh năm 1966, trú: Tổ A, khu vực B, P. Nhơn Bình, TP. Quy Nhơn) điều khiển xe Lead màu đỏ đen BKS 77L2- 033.85, có số máy JF79E0644436, số khung 7915HZ221592 đến dựng xe gần nhà tắm số 1 của Công viên. Bị cáo H thấy bà M rút chìa khóa loại Smart Key bỏ vào túi áo khoác Jeans, đặt lên ba ga xe tay ga bên cạnh rồi xuống biển tắm. Khoảng 10 phút sau, bị cáo H lén lút đến lấy chìa khóa rồi khởi động, điều khiển xe 77L2-033.85 đến cất giấu tại đường Xuân Diệu (đoạn giữa Hải Thượng Lãn Ông và Ngọc Hân Công Chúa). Sau đó, bị cáo H quay lại Công viên thiếu nhi lấy xe 77S5-9006 đem gửi tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Định rồi đem xe 77L2-033.85 về cất giấu ở gần nhà. Ngày 07/7/2020, bị cáo H tháo vứt biển số tại bãi rác gần cầu Mỹ Cang thuộc thôn Mỹ Cang, xã Phước Sơn, huyện Tuy Phước (Cơ quan CSĐT Công an TP. Quy Nhơn đã kiểm tra hiện trường nhưng không thu giữ được biển số 77L2-033.85) và bị cáo H giao xe cho bạn gái tên Lê Thị Mỹ N (sinh năm 1994, trú: Xóm A, Xuân Phương, Phước Sơn, Tuy Phước) sử dụng. Khi giao xe, bị cáo H nói dối xe này của anh Lương Chí H (sinh năm 1990, anh ruột H) mua trả góp của người khác đưa bị cáo H sử dụng; xe bị hư biển số đang làm lại nhưng chưa có nên xe không gắn biển số; do chưa thanh toán đủ tiền nên chưa có giấy tờ đăng ký xe. Chị N tưởng thật nên đưa cho bị cáo H 1.500.000đồng để trả tiền xe mua trả góp và giữ xe để sử dụng. Số tiền có được bị cáo H tiêu xài hết. Ngày 10/8/2020, chị N đã giao nộp xe mô tô trên và chìa khóa cho Cơ quan CSĐT Công an TP. Quy Nhơn.
Ngày 11/8/2020, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự TP. Quy Nhơn kết luận: Một xe mô tô hiệu Yamaha Exciter 150, màu đỏ đen, BKS 77H1-384.89, số máy G3D4E838070, số khung 1010JY071642 trị giá 34.000.000 đồng;một xe mô tô hiệu Honda Lead, màu đen đỏ, BKS 77L2- 033.85, số máy JF79E0644436, số khung 7915HZ221592 trị giá 30.000.000 đồng.
Ngày 17/8/2020, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự TP. Quy Nhơn kết luận: Ví da màu đen hiệu M.G.L trị giá 60.000 đồng.
Cơ quan CSĐT Công an TP. Quy Nhơn đã tạm giữ: Một xe mô tô hiệu Yamaha Exciter 150, màu đỏ đen, BKS 77H1-384.89, số máy G3D4E838070, số khung 1010JY071642 đã qua sử dụng; một chìa khóa xe hiệu Yamaha, đã qua sử dụng;một xe mô tô hiệu Honda Lead, màu đen đỏ, không gắn biển số, số máy JF79E0644436, số khung 7915HZ221592 đã qua sử dụng và một chìa khóa xe hiệu Honda loại “Smart Key”, đã qua sử dụng; một xe mô tô kiểu dáng Dream màu nâu tím, BKS 77S5-9006, số máy FMG10659319, số khung H059319, đã qua sử dụng; một ví da hiệu M.G.L màu đen, bên trong có 800.000 đồng và Chứng minh nhân dân số 215330314 của Nguyễn Vũ D.
Cơ quan CSĐT Công an TP. Quy Nhơn đã trả lại xe mô tô hiệu Yamaha Exciter 150, màu đỏ đen, BKS 77H1-384.89, chìa khóa xe Yamaha, ví da hiệu M.G.L màu đen và 800.000 đồng cho anh Nguyễn Vũ D; trả lại xe mô tô hiệu Honda Lead, màu đen đỏ, không gắn biển số và chìa khóa xe Honda cho bà Nguyễn Thị M; trả xe mô tô BKS 77S5-9006 cho chị Lương Thị Mỹ H. Anh Nguyễn Vũ D, bà Nguyễn Thị M không yêu cầu bồi thường gì thêm. Chị Lê Thị Mỹ N không yêu cầu bị cáo H hoàn lại số tiền 1.500.000đồng.
Tại bản cáo trạng số 135/CT-VKS ngày 12/11/2020 Viện kiểm sát nhân dân TP. Quy Nhơn truy tố bị cáo Lương Chí H về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo Lương Chí H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Lương Chí H về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52của Bộ luật hình sự, đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Lương Chí H từ 24 đến 30 tháng tù.
Về bồi thường thiệt hại: Bị hại anh Nguyễn Vũ D, bà Nguyễn Thị M đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường gì thêm; chị Lê Thị Mỹ N không yêu bị cáo H hoàn lại số tiền 1.500.000đồng nên không xem xét giải quyết.
Bị cáo tự bào chữa: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, không bào chữa. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Quy Nhơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh và điều luật áp dụng:
Tại phiên tòa bị cáo Lương Chí H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố, lời khai của bị cáo phù hợp với chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên HĐXX có đủ cơ sở xác định: Trong khoảng thời gian từ ngày 06/7/2020 đến ngày 09/8/2020, bị cáo Lương Chí H đã lén lút chiếm đoạt 02 xe mô tô của các bị hại bà Nguyễn Thị M, anh Nguyễn Vũ D và 01 ví da bên trong có số tiền 800.000 đồng trong xe mô tô của anh Nguyễn Vũ D. Theo kết luận định giá tài sản, tổng tài sản bị cáo chiếm đoạt trị giá 64.860.000đồng (sáu mươi bốn triệu tám trăm sau mươi nghìn đồng).
Bị cáo Lương Chí H có đầy đủ sức khỏe, năng lực để nhận thức và điều khiển hành vi của mình nên phải biết “Trộm cắp tài sản” của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng do tham lam, xem thường pháp luật, đã lợi dụng sự sơ hở của những bị hại trong việc quản lý tài sản, lén lút chiếm đoạt nhiều tài sản có tổng trị giá 64.860.000 đồng. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân TP. Quy Nhơn truy tố bị cáo Lương Chí H về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng tội.
[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an ở địa phương nên cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.
[4] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo: Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo thực hiện 02 lần trộm cắp tài sản, mỗi lần chiếm đoạt tài sản trị giá trên 2.000.000 đồng nên đã phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Pham tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn,ăn năn hối cải,có thời gian phục vụ trong quân ngũnên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, do đó xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo an tâm cải tạo tốt.
[5] Về bồi thường thiệt hại: Bị hại bà Nguyễn Thị M, anh Nguyễn Vũ D đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, không yêu cầu bồi thường gì thêm. Chị Lê Thị Mỹ N không yêu cầu bị cáo hoàn lại số tiền 1.500.000 đồng. Do đó Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[6] Về án phí: Bị cáo Lương Chí H bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Lương Chí H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Lương Chí H 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 09/8/2020.
2. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Buộc bị cáo Lương Chí H phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
3. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.Bị hạivắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.
Bản án 149/2020/HSST ngày 31/12/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 149/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/12/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về