TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 149/2020/HSST NGÀY 26/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 26 tháng 10 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 165/2020/TLST-HS ngày 05 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 201/2020/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Huỳnh Thanh A (tên gọi khác: B)
Sinh ngày: 15/6/1994 tại BT.
Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn C, xã D, huyện E, tỉnh BT.
Dân tộc: Kinh Quốc tịch: Việt Nam Tôn giáo: không
Trình độ học vấn: 6/12; Nghề nghiệp: lao động tự do
Cha: Huỳnh Văn F; Sinh năm 1948; Nghề nghiệp: làm nông
Mẹ: Nguyễn Thị G; Sinh năm 1954; Nghề nghiệp: làm nông;
Cùng trú tại: Thôn C, xã H, huyện I, tỉnh BT;
Anh chị em ruột: có 07 người, bị cáo là út trong gia đình;
Tiền án, tiền sự: không;
Nhân thân: không vi phạm gì;
Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ ngày 29/02/2020, Huỳnh Thanh A (sinh năm 1994, trú tại: Thôn C, xã H, huyện I, tỉnh BT) điều khiển xe mô tô hiệu Suzuki biển số 70G1 - 1XX.X8 đi từ nhà mình ở xã H - huyện I đến thành phố J để lấy một số dụng cụ sửa xe mô tô. Sau khi xong việc, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên A điều khiển xe mô tô vào một con hẻm hướng xuống biển gần cổng K, thuộc Phường L, để tìm mua ma túy. Tại đây, A gặp một nhóm bốn người thanh niên (không rõ nhân thân), A hỏi “Có đồ không?” (có nghĩa là có ma túy không), thì một trong bốn nam thanh niên nói là “Có” và hỏi A “Mua bao nhiêu”. A nói “Mua năm trăm ngàn đồng”, sau đó A đưa tiền cho người thanh niên này rồi người này chạy đi lấy ma túy (A không biết người này chạy đi đâu). Khoảng 10 phút sau người thanh niên quay lại ném xuống chỗ A 01 gói ma túy, A nhặt lên rồi bỏ trong chiếc hộp nhựa màu đỏ, sau đó bỏ vào túi áo khoác bên trái của mình. Sau khi mua được ma túy, lúc này khoảng 16 giờ 25 phút cùng ngày, A điều khiển xe mô tô biển số 70G1- 2XX.X8 về lại nhà mình, khi đi đến đoạn đường M thuộc khu phố 3, phường N, thành phố J thì A bị tổ tuần tra của Đội Cảnh sát giao thông - trật tự yêu cầu dừng xe để kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra phát hiện trong túi áo khoác bên trái của A có một hộp nhựa màu đỏ, trong hộp có một gói nylon không màu chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy. Sau đó tổ tuần tra đã đưa A về Công an phường N làm việc, tại đây A thừa nhận đó là ma túy do mình mới mua và mục đích tàng trữ ma túy là để sử dụng, (bút lục số 50)
Vật chứng thu giữ:
- 01 gói nylon không màu có khóa nhựa kéo một đầu, kích thước (1,5x4)cm bên trong chứa tinh thể màu trắng, (được niêm phong và ký hiệu M khi giám định).
- 01 hộp nhựa màu đỏ, kích thước (8x4x3) cm.
- 01 xe mô tô màu đỏ đen, hiệu Suzuki biển số 70G1 - 1XX.X8.
Tại kết luận giám định số 218 ngày 12/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh BT, kết luận:
- Mầu M gửi giám định có khối lượng 0,5269 gam; là Methamphetamine.
Đối với chiếc xe mô tô hiệu Suzuki, biển số 70G1- 1XX.X8, không xác định được số máy, số khung. Quá trình điều tra xác định được, A mua lại ở tỉnh O của một người (không rõ nhân thân) với giá 18.000.000 đồng. Thời điểm mua xe, chỉ giao tiền và xe chứ không giao giấy đăng ký xe, không lập hợp đồng mua bán. Tại bản kết luận giám định số 836 ngày 20/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh BT kết luận: Xe mô tô màu đỏ đen biển số 70G1 - 1XX.X8 có số khung MHDBF13ELW...J606996; số máy bị mài mòn, không xác định được. Do chưa xác định được chủ sở hữu của chiếc xe trên nên Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục tạm giữ, làm rõ xử lý sau.
Hiện các vật chứng còn lại của vụ án, Viện kiểm sát nhân dân thành phố J đã ra quyết định chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố J để bảo quản chờ xử lý.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố J vẫn giữ nguyên Quyết định truy tố theo Cáo trạng số 164/CT/VKSPT-HS ngày 01/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố J.
Đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố: bị cáo Huỳnh Thanh A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, đề nghị xử phạt bị cáo Huỳnh Thanh A từ 12 đến 18 tháng tù.
Biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46, điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị tuyên:
* Tịch thu, tiêu hủy: 01 gói nylon không màu có khóa nhựa kéo một đầu, kích thước (1,5x4)cm bên trong chứa tinh thể màu trắng, (được niêm phong và ký hiệu M khi giám định), 01 hộp nhựa màu đỏ, kích thước (8x4x3) cm.
- Đối với xe mô tô hiệu Suzuki, biển số 70G1- 1XX.X8, không xác định được số máy, số khung. Do chưa xác định được chủ sở hữu của chiếc xe trên nên Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục tạm giữ, làm rõ xử lý sau.
Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố J, Viện kiểm sát nhân dân thành phố J, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố:
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng và đầy đủ về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2]. Về căn cứ buộc tội bị cáo: tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu, bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố là đúng, không oan. Lời khai nhận này của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án.
Như vậy có đủ cơ sở kết luận: khoảng 14 giờ ngày 29/02/2020, Huỳnh Thanh A điều khiển xe mô tô hiệu Suzuki biển số 70G1 - 1XX.X8 đi từ nhà ở xã H, huyện I đến tp J để lấy một số dụng cụ sửa xe mô tô. Sau khi xong việc, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên A điều khiển xe mô tô vào một con hẻm hướng xuống biển gần cổng K, thuộc Phường L, để tìm mua ma túy. Tại đây, A gặp một nhóm bốn người thanh niên A hỏi “Có đồ không?” thì một trong bốn nam thanh niên nói là “Có” và hỏi A “Mua bao nhiêu”. A nói “Mua năm trăm ngàn đồng”, sau đó A đưa tiền cho người thanh niên này, khoảng 10 phút sau người thanh niên quay lại ném xuống chỗ A đứng 01 gói ma túy, A nhặt lên bỏ trong chiếc hộp nhựa màu đỏ và bỏ vào túi áo khoác bên trái của mình, lúc này khoảng 16 giờ 25 phút cùng ngày, A điều khiển xe mô tô về nhà, khi đi đến đoạn đường M thuộc khu phố 3, phường N, tp J, A bị tổ tuần tra của Đội Cảnh sát giao thông - trật tự yêu cầu dừng xe để kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra phát hiện trong túi áo khoác bên trái của A có một hộp nhựa màu đỏ, trong hộp có một gói nylon không màu chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy. Sau đó tổ tuần tra đã đưa A về Công an phường N làm việc, tại đây A thừa nhận đó là ma túy do mình mới mua và mục đích tàng trữ ma túy là để sử dụng.
Vì vậy Cáo trạng số 164/CT/VKSPT-HS ngày 01/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tp. J truy tố bị cáo Huỳnh Thanh A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.
[3]. Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo Huỳnh Thanh A là công dân có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được Methamphetamine là chất gây nghiện nằm trong danh mục Nhà nước độc quyền quản lý, nghiêm cấm các hoạt động sản xuất, tàng trữ, mua bán, sử dụng trái phép, vì hậu quả nguy hại của nó đối với sức khỏe con người trong cộng đồng và trật tự trị an xã hội. Tuy nhận thức được điều này nhưng bị cáo là con nghiện, khi đến cơn bị cáo có nhu cầu sử dụng để thỏa mãn cơn nghiện nên bị cáo bất chấp sự trừng trị của pháp luật, bất chấp hậu quả mà ma túy mang lại vẫn cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép. Hành vi của bị cáo Huỳnh Thanh A là cố ý, gây nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh, trật tự trị an tại địa phương. Do đó cần thiết phải xử lý nghiêm khắc đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.
[4]. Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo có nhân thân tốt.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: khi quyết định hình phạt sẽ xem xét cho bị cáo, tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Trên cơ sở cân nhắc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân của bị cáo xét thấy: Hành vi của bị cáo gây nguy hại cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự tại địa phương nên cần xử lý bằng một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, mức hình phạt này không chỉ nhằm trừng trị bị cáo mà còn giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới. Ngoài ra mức hình phạt đối với bị cáo còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm chung.
Đối với các đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo A, do không xác định được nhân thân nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố J không có cơ sở để xử lý là phù hợp với quy định của pháp luật.
[5]. Về ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố J:
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố j về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt là tương xứng với mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.
[6]. Về xử lý vật chứng của vụ án:
Tịch thu tiêu hủy: 01 gói nylon không màu có khóa nhựa kéo một đầu, kích thước (1,5x4)cm bên trong chứa tinh thể màu trắng, (được niêm phong và ký hiệu M khi giám định), 01 hộp nhựa màu đỏ, kích thước (8x4x3) cm.
- Đối với xe mô tô hiệu Suzuki, biển số 70G1- 1XX.X8, không xác định được số máy, số khung. Do chưa xác định được chủ sở hữu của chiếc xe trên nên Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục tạm giữ, làm rõ xử lý sau.
Về án phí: bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Tuyên bố: bị cáo Huỳnh Thanh A phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: bị cáo Huỳnh Thanh A 15 (Mười lăm) tháng tù.
Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
[2] Biện pháp tư pháp: Căn cứ các điểm a khoản 1 Điều 46, điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
* Tịch thu tiêu hủy: 01 gói nylon không màu có khóa nhựa kéo một đầu, kích thước (1,5x4)cm bên trong chứa tinh thể màu trắng, (được niêm phong và ký hiệu M khi giám định), 01 hộp nhựa màu đỏ, kích thước (8x4x3) cm.
(Tất cả tang vật chứng đều như biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 04, ngày 05/10/2020 giữa Công an thành phố J và Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố J).
- Đối với xe mô tô hiệu Suzuki, biển số 70G1- 1XX.X8, không xác định được số máy, số khung. Do chưa xác định được chủ sở hữu của chiếc xe trên nên Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục tạm giữ, làm rõ xử lý sau.
[3] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Huỳnh Thanh A phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[4] Về quyền kháng cáo:
Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (26/10/2020).
Bản án 149/2020/HSST ngày 26/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 149/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/10/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về