TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH - TỈNH NINH BÌNH
BẢN ÁN 149/2017/HSST NGÀY 30/11/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 30 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 151/2017/TL- HSST, ngày 20 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:
Nguyễn Đình T, sinh năm 1986, tại Ninh Bình; Nơi cư trú: Số nhà M, ngõ N, đường O, phố Th, phường Th, thành phố B, tỉnh Ninh Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; con ông Nguyễn Văn M và bà Nguyễn Thị H; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Lịch sử bản thân: Ngày 31 tháng 07 năm 2015, bị Công an thành phố Ninh Bình xử phạt 1.500.000đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”, ngày 19 tháng 01 năm 2011, bị Công an thành phố Ninh Bình xử phạt 500.000đồng về hành vi “ Sử dụng trái phép chất ma túy”, ngày 16 tháng 12 năm 2011 bị Công an thành phố Ninh Bình xử phạt 500.000đồng về hành vi “ Sử dụng trái phép chất ma túy”, ngày 03 tháng 01 năm 2012 bị Ủy ban nhân dân thành phố Ninh Bình quyết định đưa vào cơ sở bắt buộc chữa bệnh 24 tháng, ngày 12 tháng 03 năm 2012 bị Công an thành phố Ninh Bình xử phạt 1.000.000đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”, ngày 21 tháng 09 năm 2015 bị Công an thành phố Ninh Bình xử phạt 500.000đồng về hành vi “ Sử dụng trái phép chất ma túy”.
Bị cáo bị tạm giữ ngày 01.07.2017, đến ngày 05 tháng 07 năm 2017 chuyển tạm giam tại trại tạm giam công an tỉnh Ninh Bình (Có mặt).
Người làm chứng:
- Anh Ninh Gia L, sinh năm 1987.
Trú tại: Phố Ch, phường Th, thành phố B, tỉnh Ninh Bình (Văng mặt).
- Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1969.
Trú tại: Phố Ch, phường Th, thành phố B, tỉnh Ninh Bình (Vắng mặt).
NHẬN THẤY
Bị cáo Nguyễn Đình T bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Khoảng 21 giờ, ngày 30/06/2017, Bị cáo đi xe moto, biển kiểm soát 35F2.8267, từ nhà tại số N, ngõ M, đường Ô, phố Th, phường Th, thành phố B, tỉnh Ninh Bình sang khu vực cầu Non Nước, thuộc địa phận thôn Dinh Tần, xã Yên Bằng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây, T gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 400.000đồng được 02 gói Heroine gói ngoài bằng giấy bạc mầu trắng. Mua được Heroine, T bỏ vào túi áo bên trái trước rồi điều khiển xe moto về thành phố Ninh Bình, khi T đi đến khu vực ngõ 241, đường Ông, phố Trung Thành, phường Nam Thành, thành phố Ninh Bình thì bị tổ công tác của Công an phường Nam Thành, thành phố Ninh Bình đang làm nhiệm vụ tại khu vực phát hiện T có biểu hiện nghi vấn nên kiểm tra. Thấy vậy T đã móc 01 gói ma túy trong túi quần bên trái phía trước ra thả xuống đất, dùng chân phải nhẫm lên, nhưng bị tổ công tác phát hiện thu giữ, T tự giác giao nộp 01 gói ma túy còn lại trong túy quần bên trái cho tổ công tác và khai nhận đây là Heroine T vừa mua về để sử dụng.
Ngày 02/07/2017, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận "Chất bột dạng cục mầu trắng ký hiệu M1 có khối lượng 0,2705gam, M2 có khối lượng 0,0966gam”. Tổng khối lượng chất bột dạng cục màu trắng trong hai gói ký hiệu M1, M2 thu giữ của T có khối lượng 0,3671gam (Không phẩy ba nghìn, sáu trăm bẩy mốt gam). Các chất dạng cục màu trắng trong hai gói ký hiệu M1, M2 thu giữ của T đều là chất ma túy loại Heroine.
Tại bản cáo trạng số: 149/CT- VKS ngày 18.10.2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình đã truy tố bị cáo Nguyễn Đình T ra trước Toà án nhân dân thành phố Ninh Bình để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát đề nghị: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; khoản 1 Điều 249, khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015; Nghị quyết 41/2017/QH14, ngày 20-06-2017 của Quốc hội, xử phạt Nguyễn Đình T từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù.
Xử lý vật chứng áp dụng khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 41 Bộ luật hình sự: Trả lại cho Nguyễn Đình T số tiền 66.000đồng, một điện thoại di động nhãn hiệu Xphone X30; Tịch thu tiêu hủy 0,2734 gam Heroine cùng vỏ bao dùng để gói ma túy trong gói niêm phong ban đầu.
Bị cáo nhất trí với luận tội của Kiểm sát viên và xin giảm nhẹ hình phạt. Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
XÉT THẤY
Tại phiên toà bị cáo Nguyễn Đình T khai và thừa nhận: Khoảng 21 giờ 30 phút, ngày 30/06/2017, tại khu vực đường Hải Thượng Lãn Ông, phố Trung Thành, phường Nam Thành, thành phố Ninh Bình, Bị cáo đã có hành vi cất giữ trái phép 02 gói Heroine có tổng khối lượng 0,3671gam (Không phẩy ba nghìn, sáu trăm bẩy mốt gam). Lời khai của Bị cáo tại phiên toà phù hợp với chính lời khai của Bị cáo trong quá trình Điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và biên bản, ngày 30 tháng 06 năm 2017, kết luận giám định cùng các chứng cứ khác đã được xem xét công khai tại phiên toà. Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Nguyễn Đình T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.
Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình Điều tra, truy tố xét xử bị cáo thành khẩn khai báo đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.
Cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo. Hội đồng xét xử thấy tội danh, loại, mức hình phạt do đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp, cần phải xử phạt bị cáo loại, mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Tại thời điểm xét xử, theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” có khung hình phạt nhẹ hơn khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 có lợi cho người phạm tội. Căn cứ khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015, Nghị quyết 41/2017/QH14, ngày 20-06-2017 của Quốc hội, Hội đồng xét xử áp dụng khung hình phạt có lợi cho người phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 để xử lý đối với bị cáo. Phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để tạo Điều kiện cho bị cáo học tập, cải tạo thành người công dân có ích cho gia đình, xã hội.
Về xử lý vật chứng: Số Heroine còn lại sau khi trích mẫu gửi đi giám định còn lại 0,2734 gam là chất nhà nước cấm lưu hành cùng toàn bộ vỏ bao bị cáo dùng gói ma túy trong gói niêm phong ban đầu không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy. Số tiền 66.000đồng, một điện thoại di động nhãn hiệu Xphone X30 không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại cho bị cáo
Đối với chiếc xe moto BKS 35F2- 8267, bị cáo mượn để đi mua ma túy chưa xác định được chủ sở hữu, Cơ quan công an đã tách tài liệu để tiếp tục điều tra để xử lý là đúng quy định của pháp luật.
Trong vụ án có một người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo, Bị cáo không quen biết, không rõ địa chỉ của người này nên không có cơ sở điều tra để xử lý.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
2. Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; khoản 3 Điều 7, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, Nghị quyết 41/2017/QH14, ngày 20-06-2017 của Quốc hội.
Xử phạt Bị cáo Nguyễn Đình T 24 (Hai bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/07/2017.
3. Xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự.
- Tịch thu tiêu hủy 0,2734gam Heroine (Không phẩy hai nghìn bẩy trăm ba tư) cùng toàn bộ vỏ bao gói trong gói niêm phong ban đầu. Trả lại cho Nguyễn Đình T một điện thoại di động nhãn hiệu Xphone X30 Cụ thể chi tiết như biên bản giao nhận vật chứng ngày 13 tháng 11 năm 2017.
Trả lại cho Nguyễn Đình T số tiền 66.000đồng (Sáu sáu nghìn đồng) theo giấy ủy nhiệm chi ngày 10 tháng 11 năm 2017 giữa Công an thành phố Ninh Bình và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình.
4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; áp dụng Điều 6; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Nguyễn Đình T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm 200.000đồng.
Án xử sở thẩm công khai, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án”.
Bản án 149/2017/HSST ngày 30/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 149/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/11/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về