Bản án 148/2019/DS-ST ngày 12/11/2019 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 148/2019/DS-ST NGÀY 12/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VAY TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 247/2019/TLST-DS ngày 28 tháng 5 năm 2019 về “tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 485/2019/QĐXXST-DS ngày 30 tháng 9 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 437/2019/QĐST-DS ngày 22 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ (sau đây được viết tắt là B); địa chỉ trụ sở chính: Tháp B, quận K, thành phố Hà Nội.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Trương Thanh T, chức vụ: Chuyên viên khách hàng Phòng giao dịch C Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ - Chi nhánh An Giang; là người đại diện theo ủy quyền (theo văn bản ủy quyền số 906/QĐ-B ngày 26/11/2018 của Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ và văn bản ủy quyền số 516/QĐ-B.AG ngày 04/9/2019 của Giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ - Chi nhánh An Giang); có mặt.

2. Bị đơn: Ông Trương Thái P, sinh năm 1987; địa chỉ: ấp M, xã A, huyện C, tỉnh An Giang; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện và các lời khai cung cấp trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn cho rằng, vào ngày 11/6/2015, giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ - Chi nhánh An Giang - Phòng giao dịch C với ông Trương Thái P có ký kết Hợp đồng tín dụng số 01/2015/HĐ ngày 11/6/2015. Theo đó, Ngân hàng cho ông Trương Thái P vay số tiền 75.000.000 đồng; mục đích vay tiêu dùng và phục vụ đời sống; thời hạn vay 36 tháng, kể từ ngày 11/6/2015 đến hết ngày 11/6/2018 với hình thức tín chấp; lãi suất vay trong hạn là 11,2%/năm, lãi suất được điều chỉnh 06 tháng/lần; lãi suất quá hạn 150% lãi suất trong hạn; kế hoạch trả nợ gốc và lãi: trả nợ gốc và lãi định kỳ hàng tháng, từ tháng 07/2015 đến tháng 5/2018 mỗi tháng trả 2.085.000 đồng. Riêng ngày 11/6/2018 phải trả số tiền là 2.025.000 đồng, lãi theo dư nợ thực tế.

Căn cứ theo hợp đồng tín dụng đã ký kết, Ngân hàng đã giải ngân cho ông P, đồng thời ông P đã nhận đủ số tiền vay 75.000.000 đồng theo giấy nhận nợ ngày 15/6/2015.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, ông P chỉ trả được nợ gốc 35.445.000 đồng và tiền lãi 9.280.797 đồng. Đến nay, ông Trương Thái P không thực hiện thanh toán nợ theo cam kết trong hợp đồng, đồng thời Ngân hàng đã chuyển sang nợ quá hạn.

Tính đến ngày 08/8/2019, tổng số tiền gốc vài lãi của ông Trương Thái P còn nợ lại Ngân hàng là 55.872.881 đồng; trong đó, tiền gốc 39.555.000 đồng, tiền lãi trong hạn 12.037.064 đồng, tiền lãi quá hạn 4.280.817 đồng (tiền lãi tạm tính đến ngày 08/8/2019).

Vì vậy, Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ yêu cầu ông Trương Thái P phải có trách nhiệm trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ số tiền nợ gốc 39.555.000 đồng và tổng số tiền lãi (bao gồm lãi vay trong hạn, lãi vay quá hạn) tạm tính đến ngày 08/8/2019 là 16.317.881 đồng và tiền lãi phát sinh theo Hợp đồng tín dụng số 01/2015/HĐ ngày 11/6/2015 trên số dư nợ chưa thanh toán cho đến khi thi hành án xong.

Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp chứng minh cho ý kiến, yêu cầu khởi kiện là: Hợp đồng tín dụng số 01/2015/HĐ ngày 11/6/2015 (bản photo), giấy đề nghị vay vốn ngày 11/6/2015 (bản photo), bảng kê rút vốn (bản photo), giấy xác nhận nợ đến hết ngày 08/8/2019.

- Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày ý kiến, yêu cầu như trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Bên cạnh đó, ông Tùng còn khai, về nợ vốn, giữ nguyên như yêu cầu trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Về tiền lãi, yêu cầu ông P trả lãi tạm tính đến ngày 12/11/2019, tiền lãi phải trả là 18.089.946 đồng, trong đó, lãi trong hạn 13.218 đồng, lãi quá hạn 4.871.506 đồng và yêu cầu tiếp tục trả lãi phát sinh với mức lãi suất đã thỏa thuận theo hợp đồng đã ký sau ngày xét xử cho đến khi thi hành án xong.

Tại phiên tòa ngày 12/11/2019 ông Trương Thái P trình bày: Ông thống nhất với số nợ mà Ngân hàng vừa trình bày bao gồm số tiền vốn + lãi trong hạn + lãi quá hạn. Nhưng do hiện nay anh không còn công tác tại Công An huyện C nên hoàn cảnh khó khăn, khi nào anh làm có tiền thì anh sẽ trả nợ cho Ngân Hàng. Anh yêu cầu đưa Công An huyện C vào người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án để trả nợ thay anh, vì Công an huyện C đã bảo lãnh cho anh vay.

Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ngày 11/6/2015, giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ - Chi nhánh An Giang - Phòng giao dịch C (Ngân hàng) và ông Trương Thái P ký hợp đồng tín dụng với số tiền 75.000.000 đồng, đã giải ngân ngày 11/6/2015, thời hạn vay 36 tháng, từ 11/6/2015 đến ngày 11/6/2018, lãi suất trong hạn là 11,2%/năm áp dụng cho 06 tháng, lãi suất nợ quá hạn 150% lãi suất trong hạn; kế hoạch trả nợ gốc và lãi: trả nợ gốc và lãi định kỳ hàng tháng, từ tháng 07/2015 đến thánh 5/2018 trả 2.085.000 đồng/tháng. Riêng ngày 11/6/2018 phả trả số tiền 2.025.000 đồng, lãi theo dư nợ thực tế.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, ông P trả được nợ gốc 35.445.000 đồng và lãi 9.280.797. đồng. Sau đó, ông P không thực hiện thanh toán số tiền còn lại. Ngân hàng đã nhiều lần đôn đốc, nhắc nhở nhưng không thực hiện. Nay, Ngân hàng yêu cầu ông P trả số tiền nợ gốc 39.555.000 đồng đồng, lãi tạm tính đến ngày 12/11/2019 gồm trong hạn 13.218.440 đồng, lãi quá hạn 4.871.506 đồng và lãi phát sinh theo hợp đồng.

Phía ông P thống nhất số nợ như đại diện Ngân hàng trình bày nhưng không có khả năng trả nợ.

Xét thấy, hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng với ông P được xác lập trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận và được giải ngân xong ngày 11/6/2015 với số tiền 75.000.000 đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng, ông P vi phạm nghĩa vụ thanh toán, nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu yêu cầu trả nợ gốc 57.644.946 đồng, lãi tạm tính đến ngày 12/11/2019 gồm trong hạn 13.218.440 đồng, lãi quá hạn 4.871.506 đồng và tính lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng số 01/2015/HĐ ngày 11/6/2015 trên số dư nợ chưa thanh toán cho đến khi thi hành án xong là phù hợp Điều 463, 466,468 Bộ luật dân sự và Điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng.

Từ phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 463,466, 468 Bộ luật dân sự, Điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng, xem xét:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ - Chi nhánh An Giang - Phòng giao dịch C.

- Buộc ông Trương Thái P trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ - Chi nhánh An Giang - Phòng giao dịch C tổng số tiền gốc 57.644.946 đồng, lãi tạm tính đến ngày 12/11/2019 gồm trong hạn 13.218.440 đồng, lãi quá hạn 4.871.506 đồng và tính lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng số 01/2015/HĐ ngày 11/6/2015 trên số dư nợ chưa thanh toán cho đến khi thi hành án xong.

Tòa án đã thông báo thụ lý vụ án và triệu tập hợp lệ ông Trương Thái P đến tham gia phiên họp và hòa giải theo đúng trình tự của pháp luật nhưng các ông không đến nên Tòa án không tiến hành hòa giải được.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

* Về tố tụng:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Ngân hàng B khởi kiện yêu cầu ông Trương Thái P trả nợ vay. Ông P đang cư trú trên địa bàn huyện C nên yêu cầu kiện của B thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

* Về nội dung:

[2] Về việc xác lập và thực hiện hợp đồng vay tài sản:

Hợp đồng tín dụng số 01/2015/HĐ ngày 11/6/2015 giữa B - Chi nhánh An Giang - Phòng giao dịch C với ông Trương Thái P được ký kết trên cơ sở tự nguyện, hình thức và nội dung hợp đồng phù hợp với quy định tại Điều 463 Bộ luật Dân sự năm 2015, khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 nên phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng được ký kết.

Về thực hiện hợp đồng, trên cơ sở hợp đồng tín dụng số 01/2015/HĐ ngày 11/6/2015, ông P được B giải ngân số tiền 75.000.000 đồng thông qua qua bảng kê rút vốn ngày 15/6/2015. Sau khi vay, ông P có trả cho Ngân hàng được số nợ vốn 35.445.000 đồng và nợ lãi 9.280.797 đồng rồi ngưng không thanh toán tiếp. Cho nên, ông P còn nợ B nợ vốn 39.555.000 đồng và nợ lãi tạm tính đến ngày 12/11/2019 là 18.089.946 đồng, trong đó, tiền lãi trong hạn 13.218.440 đồng, tiền lãi quá hạn 4.871.506 đồng. Tại phiên tòa ông P cho rằng Công an huyện C bảo lãnh cho ông để vay số nợ 75.000.000 đồng, vì vậy ông yêu cầu Công an huyện C phải có nghĩa vụ cùng ông trả số nợ trên. Xét thấy việc ông P yêu cầu là không có căn cứ, vì Công An huyện C bảo lãnh cho ông vay nhằm hỗ trợ cán bộ trong sinh hoạt hàng ngày. Bên cạnh Công an còn nhắc nhở, đôn đốc ông trong việc trả nợ cho Ngân Hàng. Vì vậy lời trình bày của ông không có đủ căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về yêu cầu của nguyên đơn:

Do ông P vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên B khởi kiện yêu cầu ông P trả nợ là phù hợp với nội dung hợp đồng tín dụng đã ký kết, quy định tại các Điều 466, 470 Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.

Vì vậy, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng B; buộc ông P trả cho Ngân hàng B nợ vốn 39.555.000 đồng và nợ lãi tạm tính đến ngày 12/11/201 là 18.089.946 đồng, trong đó, tiền lãi trong hạn 13.218.440 đồng, tiền lãi quá hạn 4.871.506 đồng và tiền lãi phát sinh trên số nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong các hợp đồng tín dụng số 01/2015/HĐ cho đến khi thanh toán xong khoản nợ.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ông Trương Thái P phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

Các Điều 463,466, 468 Bộ luật dân sự năm 2015;

Điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;

Điều 26, 35, 39, 144, 146, 147, 228, 235 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ.

- Buộc ông Trương Thái P có trách nhiệm trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ nợ vốn và lãi của khoản vay như sau:

+ Tiền lãi tính đến hết ngày 12/11/2019: 18.089.946 đồng, trong đó, lãi trong hạn 13.218.440 đồng (mười ba triệu, hai trăm mười tám ngàn bốn trăm bốn mươi đồng) đồng và lãi quá hạn 4.871.506 đồng (bốn triệu tám trăm bảy mươi mốt ngàn năm trăm lẻ sáu đồng)

+ Vốn gốc: 39.555.000 (ba mươi chín triệu, năm trăm năm mươi lăm nghìn) đồng và tiền lãi phát sinh đối với số nợ còn lại theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số 01/2015/HĐ ngày 11/6/2015 giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ - Chi nhánh An Giang - Phòng giao dịch C và ông Trương Thái P cho đến khi thanh toán xong.

Kể từ ngày 13/11/2019 ông Trương Thái P còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số 01/2015/HĐ ngày 11/6/2015 cho đến khi ông Trương Thái P thanh toán xong khoản nợ gốc cho Ngân hàng. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng thương mại cổ phần Đ thì lãi suất mà ông P phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng theo quết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Trương Thái P phải chịu 2.882.247 đồng (hai triệu tám trăm tám mươi hai ngàn hai trăm bốn mươi bảy đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ số tiền tạm ứng án phí đã nộp 1.328.000 (một triệu, ba trăm hai mươi tám nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số TU/2016/0013085 ngày 22/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C.

3. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ, ông Trương Thái P có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Riêng thời hạn kháng cáo của ông Trương Thái P được tính là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 148/2019/DS-ST ngày 12/11/2019 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản

Số hiệu:148/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;