Bản án 148/2018/HNGĐ-ST ngày 30/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

 TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 148/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 676/2018/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 8 năm 2018 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 129/2018/QĐXXST- HNGĐ ngày 18 tháng 10 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 89/2018/QĐST-HNGĐ ngày 07 tháng 11 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Trần Vũ H, sinh năm 1984; địa chỉ thường trú: Đường L, Tổ 41, Khu phố 3, phường P, thành phố T, tỉnh B. Có đơn xin vắng mặt.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1991; địa chỉ thường trú: Đường L, Tổ 41, Khu phố 3, phường P, thành phố T, tỉnh B. Địa chỉ liên lạc: Đường L, Khu phố 3, phường P, thành phố T, tỉnh B. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 03/8/2018, quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Trần Vũ H trình bày:

- Về hôn nhân: Ông Trần Vũ H và bà Nguyễn Thị T chung sống với nhau từ năm 2012, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, có tổ chức cưới hỏi, có đăng ký kết hôn ngày 13/12/2012 tại Ủy ban nhân dân phường P, thành phố T, tỉnh B.

Sau khi kết hôn ông H, bà T chung sống tại đường L, Tổ 41, Khu phố 3, phường P, thành phố T, tỉnh B. Trong quá trình chung sống vợ chồng thường phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, vợ chồng không hợp nhau, thường xuyên xảy ra cải vã, vợ chồng không còn quan tâm đến nhau, không còn sống chung. Hiện nay tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng không thể hàn gắn nên ông Trần Vũ H yêu cầu được ly hôn với bà Nguyễn Thị T.

- Về con chung: Quá trình chung sống ông Trần Vũ H và bà Nguyễn Thị T có 02 con chung tên Trần Gia H1, sinh ngày 17/02/2011 và Trần Gia H2, sinh ngày 16/01/2013. Hiện nay các con đang sống cùng ông H, ông H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục các con chung.

- Về cấp dưỡng nuôi con chung: Ông H không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung, nợ chung: Ông H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kèm theo đơn khởi kiện nguyên đơn đã giao nộp các tài liệu, chứng cứ sau: Chứng minh nhân dân, Sổ hộ khẩu, Giấy chứng nhận kết hôn (bản sao), Giấy khai sinh (bản sao).

Bị đơn bà Nguyễn Thị T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để làm việc, tham gia hòa giải và tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do và cũng không gửi văn bản trình bày ý kiến của mình cho Tòa án nên Tòa án không thể ghi nhận ý kiến của bà T.

Bị đơn không giao nộp tài liệu chứng cứ

Tại phiên tòa,

- Nguyên đơn ông Trần Vũ H có đơn xin giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn bà Nguyễn Thị T vắng mặt không có lý do.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến khi khai mạc phiên tòa, Thẩm phán đã xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự; xác định đúng tư cách đương sự theo quy định tại Điều 68 của Bộ luật tố tụng dân sự; thụ lý và giải quyết đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Trình tự thụ lý, xác minh, thu thập và giao nhận chứng cứ đầy đủ, đúng trình tự theo quy định. Vụ án được đưa ra xét xử đúng thời hạn theo quy định tại Điều 48, Điều 203 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đúng quy định tại chương XIV về phiên tòa sơ thẩm.

Đối với những người tham gia tố tụng: Bị đơn đã được triệu tập tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vắng mặt. Nguyên đơn có đơn xin giải quyết vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng là đúng theo quy định tại Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Kiểm sát viên không có kiến nghị khắc phục.

+ Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng:

[1.1]. Về quan hệ pháp luật: Ngày 03 tháng 8 năm 2018, ông Trần Vũ H có đơn khởi kiện ly hôn, tranh chấp về nuôi con với bà Nguyễn Thị T nên đây là vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại Điều 51, Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình.

[1.2]. Về thẩm quyền: Ông Trần Vũ H khởi kiện về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con đối với bị đơn bà Nguyễn Thị T, đây là loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Tại thời điểm thụ lý bị đơn bà Nguyễn Thị T có địa chỉ cư trú tại phường P, thành phố T, tỉnh B nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.3]. Về việc tham gia phiên tòa của đương sự: Tại phiên tòa nguyên đơn ông Trần Vũ H có đơn xin giải quyết vắng mặt; bị đơn bà Nguyễn Thị T vắng mặt không có lý do mặc dù đã được triệu tập đến tham gia phiên tòa lần thứ hai. Vì vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một tiến hành xét xử vụ án vắng mặt đối với ông H và bà T.

[2]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy: [2.1]. Về quan hệ hôn nhân:

Ông Trần Vũ H và bà Nguyễn Thị T chung sống và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường P, thành phố T, tỉnh B, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 118, quyển số 02/2012, ngày 13/12/2012. Việc, chung sống và đăng ký kết hôn giữa ông H và bà T là hoàn toàn tự nguyện, không bên nào bị ép buộc nên đã tuân thủ đúng quy định tại Điều 11 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, vì vậy hôn nhân giữa ông H và bà T là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Ông H khai, trong quá trình chung sống do bất đồng quan điểm, vợ chồng không hợp nhau, thường xuyên xảy ra cải vã, vợ chồng không thể tiếp tục chung sống được nữa.

Việc ông H, bà T không còn quan tâm, thương yêu, chăm sóc và giúp đỡ lẫn nhau và không cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn nên đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng theo quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và Gia đình. Hơn nữa, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ bà T nhiều lần để Tòa án tiến hành hòa giải đoàn tụ gia đình nhưng bà T vẫn vắng mặt, điều này chứng tỏ bà T không có thiện chí mong muốn gia đình được đoàn tụ.

Xét thấy, mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc nên vợ chồng phải có trách nhiệm chăm sóc, giúp đỡ nhau về mọi mặt, tin tưởng thương yêu nhau; những mâu thuẫn trong cuộc sống vợ chồng cần phải tìm cách giải quyết để xây dựng gia đình hạnh phúc.

Qua xác minh tại địa phương nơi ông H, bà T cư trú, cho biết: Quá trình chung sống vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn hay không thì địa phương biết vì không yêu cầu địa phương hòa giải, tuy nhiên hiện nay vợ chồng không còn sống chung.

Ông H xác định hiện nay không còn tình cảm với bà T, vợ chồng không còn yêu thương nhau, không còn sống chung nên không thể nào có cơ hội hàn gắn. Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định mâu thuẫn giữa ông H, bà T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên ông H yêu cầu được ly hôn với bà T là có cơ sở, căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông H.

[2.2]. Về con chung: Quá trình chung sống ông Trần Vũ H và bà Nguyễn Thị T có 02 con chung tên Trần Gia H1, sinh ngày 17/02/2011 và Trần Gia H2, sinh ngày 16/01/2013, các con hiện đang sống cùng với ông H. Ông H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung, không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con chung.

Xét thấy, hiện cháu H1 và H2 đang sinh sống cùng với ông H ổn định, tại biên bản lấy lời khai ngày 27/9/2018 cháu H1 có nguyện vọng được ở sống cùng với ông H; bà T không có văn bản nào trình bày về nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng các con. Vì vậy, để cháu H1 và cháu H2 phát triển toàn diện, cần giao cháu H1 và cháu H2 cho ông H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp nên yêu cầu của ông H về việc trực tiếp nuôi dưỡng các con chung được chấp nhận.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Ông H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[2.3]. Về tài sản chung, nợ chung: Ông H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết.

[3]. Tại phiên tòa, quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một là có cơ sở, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[4]. Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Ông Trần Vũ H phải nộp 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các điều 147, 238, 266, 271 và 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; các điều 51, 53, 56, 57, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý, và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Vũ H về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” đối với bị đơn bà Nguyễn Thị T.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Trần Vũ H được ly hôn với bà Nguyễn Thị T.

1.2. Về con chung: Giao con chung tên Trần Gia H1, sinh ngày 17/02/2011 và Trần Gia H2, sinh ngày 16/01/2013 cho ông Trần Vũ H được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

1.3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Bà Nguyễn Thị T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích hợp pháp của con chung, khi đương sự có yêu cầu Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức dưỡng nuôi con nếu cần thiết.

1.4. Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Ông Trần Vũ H phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0022519 ngày 13/8/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

3. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày (mười lăm ngày) kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 148/2018/HNGĐ-ST ngày 30/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:148/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;