Bản án 148/2018/HNGĐ-ST ngày 12/07/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 148/2018/HNGĐ-ST NGÀY 12/07/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 12 tháng 7 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 198/2018/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 3 năm 2018 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 170/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 87/2018/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 6 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Võ Thị Thanh T, sinh năm 1998. (có mặt)

Địa chỉ: Ấp H, xã L, huyện Đ, tỉnh Long An.

- Bị đơn: Anh Phạm Thành T, sinh năm 1994. (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp H, xã L, huyện Đ, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 27tháng 2 năm 2018 và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Võ Thị Thanh T trình bày: Chị và anh Phạm Thành T có tìm hiểu nhau thời gian 1 tháng sau đó chung sống với nhau vào năm 2016, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L vào năm 2016. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến tháng 2 năm 2017 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do cuộc sống không phù hợp, bất đồng quan điểm, không tìm được tiếng nói chung, anh T không lo làm ăn, thường xuyên uống rượu, nên chị và anh T đã ly thân từ tháng 01 năm 2018 đến nay. Nay, nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên chị xin ly hôn với anh Phạm Thành T.

Về con chung: Quá trình chung sống, chị và anh T có 01 con chung tên Phạm Duy K, sinh ngày 17/7/2017, hiện nay tôi đang nuôi con. Khi ly hôn, chị xin tiếp tục nuôi con, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nợ chung: Không có.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, các văn bản tố tụng cần thiết, đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và các thủ tục theo pháp luật quy định nhưng anh T vẫn vắng mặt, cũng không có văn bản phản hồi ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ các kết quả xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Võ Thị Thanh T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Phạm Thành T; anh Phạm Thành T có hộ khẩu thường trú tại ấp H, xã L, huyện Đ, tỉnh Long An và hiện đang có mặt tại địa phương nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, bị đơn anh Phạm Thành T vắng mặt, căn cứ vào khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh T chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện Đ, tỉnh Long An vào số 0114/2016, ngày 06 tháng 12 năm 2016, nên hôn nhân giữa anh chị là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Thấy rằng, trong quá trình chung sống, Chị T cho rằng nguyên nhân mâu thuẩn là do cuộc sống không phù hợp, bất đồng quan điểm, không tìm được tiếng nói chung, anh T thường xuyên uống rượu, không lo làm ăn và chăm sóc gia đình nên chị T và anh T đã xa nhau từ tháng 01 năm 2018 cho đến nay. Đối với anh Phạm Thành T vắng mặt. Trong quá trình thụ lý giải quyết và tại phiên tòa hôm nay, anh T vắng mặt, đồng thời anh T cũng không cung cấp hay phản hồi ý kiến và hướng đoàn tụ về việc ly hôn của chị T, chứng tỏ anh T không có thiện chí để hàn gắn trong khi thời gian xa nhau từ tháng 01 năm 2018 cho đến nay.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng đời sống chung vợ chồng của chị T và anh T không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, xét yêu cầu ly hôn của chị T đối với anh T là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Về con chung: Chị T và anh T chung sống có một con chung tên Phạm Duy K, sinh ngày 17/7/2017. Chị T xin tiếp tục được nuôi con chung. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, anh T vắng mặt và không có bất cứ ý kiến gì đối với việc chị T xin được tiếp tục nuôi con chung tên Phạm Duy K.

Xét thấy, từ khi anh chị xa nhau đến nay, chị T là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, và vẫn đảm bảo sự phát triển bình thường của con chung. Hơn nữa, cháu Phạm Duy K, sinh ngày 17/7/2017, chưa tròn 36 tháng tuổi, rất cần sự chăm sóc của người mẹ. Do đó, để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển ổn định cho con chung, Hội đồng xét xử thấy rằng cần giao con chung cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[5]. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị T không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung: Chị T xác định không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về nợ chung: Chị T khai không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về án phí: Chị T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 1 điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 9, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Võ Thị Thanh T đối với anh Phạm Thành T về việc “Ly hôn”.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Võ Thị Thanh T được ly hôn với anh Phạm Thành T.

- Về con chung: Chị Võ Thị Thanh T được tiếp tục nuôi con chung tên Phạm Duy K, sinh ngày 17/7/2017 (Chị T đang nuôi con). Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con vì chị T không yêu cầu.

Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, bên trực tiếp nuôi con không được quyền ngăn cản. Khi cần thiết có thể yêu cầu thay đổi quyền nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

2. Về án phí: Chị Võ Thị Thanh T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0002327 ngày 06/3/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An sang án phí để thi hành. Chị T không phải nộp tiếp.

Án xử sơ thẩm và tuyên án công khai, nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 148/2018/HNGĐ-ST ngày 12/07/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:148/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;