TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÓC MÔN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 148/2017/HSST NGÀY 13/11/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 13 tháng 11 năm 2017, tại Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn mở phiên tòa xét xử vụ án hình sự đã thụ lý số: 149/2017/HSST ngày 02 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:
Họ và tên: Võ Minh Đ - sinh năm: 1993; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp M, xã N, huyện P, tỉnh Bạc Liêu; trình độ văn hóa: 6/12; nghề nghiệp: không; con ông Võ Thanh T và bà Nguyễn Thị M; tiền án: bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số: 134/2016/HSST ngày 30/5/2016; tiền sự: không; bị cáo bị bắt tạm giam ngày 17/8/2017. (Có mặt)
Những người tham gia tố tụng:
* Người bị hại: Ông Nguyễn Văn T - sinh năm: 1989.
Địa chỉ: Ấp 2, xã T, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt)
NHẬN THẤY
Bị cáo Võ Minh Đ bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Khoảng đầu tháng 12/2016, ông Đặng Thái Trường E ngủ dậy thì phát hiện cổng nhà mình tại Ấp 2, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh bị mở ra, đồ đạc bên trong nhà bị xáo trộn, chiếc xe gắn máy màu xanh, biển số: 52N5 - 6756 của ông Nguyễn Văn T để cạnh tủ bị mất. Do giá trị tài sản không lớn nên ông T không trình báo vụ mất trộm cho Công an.
Đến ngày 27/3/2017, Công an huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu thông báo về việc: Vào ngày 17/3/2017, lực lượng Cảnh sát giao thông Công an huyện Hòa Bình tuần tra phát hiện đối tượng Võ Minh Đ điều khiển xe gắn máy màu xanh, biển số: 52N5 - 6756 không đội mũ bảo hiểm nên tiến hành kiểm tra. Tại Công an huyện Hòa Bình, đối tượng Đức khai nhận một mình trộm chiếc xe gắn máy này của ông T tại Ấp 2, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh vào khoảng tháng 12/2016 rồi mang về Bạc Liêu sử dụng.
Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hóc Môn, Võ Minh Đ khai nhận: Vào đầu tháng 11/2016, Võ Minh Đ đến Thành phố Hồ Chí Minh làm thuê và ở trọ gần tiệm tạp hóa nhà ông T. Khoảng gần 01 tháng sau, vào lúc 23 giờ, Đức đến tiệm tạp hóa mua mì gói và thấy có dựng chiếc xe gắn máy biển số: 52N5 - 6756. Sau khi về phòng trọ thì Đ nảy sinh ý định trộm cắp tài sản và quay lại trộm chiếc xe này. Đ đi đến mở chốt cổng rào đi vào tiệm tạp hóa, do nhà không khóa nên Đ mở cửa đi vào trong. Lúc này, trong tiệm tạp hóa không có người, chiếc xe gắn máy có chìa khóa xe để trên ổ khóa. Đ đi đến kéo chốt mở cửa trước, đẩy lùi chiếc xe ra khỏi tiệm tạp hóa rồi đề máy chạy tẩu thoát.
Tại Kết luận định giá tài sản số: 99/2017 ngày 27 tháng 4 năm 2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hóc Môn thì 01 chiếc xe gắn máy hiệu Dayang (loại xe Trung Quốc), biển số: 52N5 - 6756 có giá trị 2.500.000 đồng.
Qua xác minh, chiếc xe gắn máy biển số: 52N5 - 6756 do ông Phạm Văn N đứng tên chủ sở hữu. Ông N đã tặng cho chiếc xe này cho cháu vợ là ông Nguyễn Văn T vào năm 2015 nhưng không có làm giấy tặng cho. Ông N không có yêu cầu gì nên Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe gắn máy biển số: 52N5 - 6756 cho ông Nguyễn Văn T.
Tại Bản cáo trạng số: 152/Ctr-VKS ngày 29 tháng 9 năm 2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Võ Minh Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn giữ quyền công tố tại phiên tòa xác định: Căn cứ vào lời khai tại Cơ quan điều tra, lời khai tại phiên tòa hôm nay của bị cáo cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Võ Minh Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Đ từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác.
XÉT THẤY
Tại phiên tòa, bị cáo Võ Minh Đ khai nhận: Vào khoảng tháng 12/2017 (không nhớ rõ ngày), bị cáo đi bộ đến căn nhà tại Ấp 2, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh lấy trộm 01 chiếc xe gắn máy màu xanh, biển số: 52N5 - 6756 mang về Bạc Liêu sử dụng. Vào ngày 17/3/2017, khi bị cáo điều khiển xe gắn máy biển số: 52N5 - 6756 lưu thông trên đường không đội mũ bảo hiểm nên bị lực lượng Cảnh sát giao thông Công an huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu tiến hành kiểm tra. Tại Công an huyện Hòa Bình, bị cáo khai nhận đã trộm chiếc xe gắn máy này tại huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, bị cáo bị Cơ quan điều tra lập hồ sơ xử lý đúng như nội dung Cáo trạng truy tố.
Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự; tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị 2.500.000 đồng. Do đó, Bản cáo trạng số: 152/Ctr-VKS ngày 29 tháng 9 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Võ Minh Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.
Khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự quy định:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.”
Áp dụng điều luật được viện dẫn nêu trên cho thấy, hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật với lỗi cố ý trực tiếp, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an xã hội. Bị cáo có nhân thân xấu, năm 2016 bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và chưa được xóa án tích, nên hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp “tái phạm” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo để có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
Tuy nhiên, Hồi đồng xét xử có xem xét tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tại phiên tòa, người bị hại yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Từ đó, cần xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
Ý kiến đề nghị áp dụng hình phạt đối với bị cáo như đã nêu trên của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn là phù hợp, nên được Hội đồng xét xử chấp thuận.
Về xử lý vật chứng: Đối với 01 chiếc xe gắn máy hiệu Dayang (loại xe Trung Quốc), biển số: 52N5 - 6756, Cơ quan điều tra đã trả lại cho người quản lý, sử dụng hợp pháp là phù hợp nên không xem xét lại.
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường về dân sự, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: bị cáo Võ Minh Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự; Xử phạt: bị cáo Võ Minh Đ 01 (một) năm tù, thời hạn tù được tính từ ngày 17/8/2017.
Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Võ Minh Đ phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).
Án xử sơ thẩm công khai bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 148/2017/HSST ngày 13/11/2017 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 148/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/11/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về