TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 147/2020/HS-PT NGÀY 30/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP VẬT LIỆU NỔ
Ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 19/2020/TLPT-HS ngày 04 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Thị T do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 59/2019/HS-ST ngày 27/12/2019 của Tòa án nhân dân huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
- Bị cáo kháng cáo: Nguyễn Thị T, sinh ngày 15 tháng 8 năm 1956, tại xã C, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: thôn P, xã C, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Trình độ văn hoá: Không biết chữ; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Nguyễn T, sinh năm 1922 (đã mất), con bà: Trương Thị T, sinh năm 1924 (đã mất); chồng: Trần Thiện K, sinh năm 1950, trú tại thôn P, xã C, huyện C , tỉnh Hà Tĩnh; con có 04 con (đã chết 01 người); con lớn nhất sinh năm 1978; con út sinh năm 1988; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 23/10/2008, bị Tòa án nhân dân huyện Cẩm Xuyên xử phạt 36 tháng tù cho hưởng án treo với thời gian thử thách 60 tháng về tội “Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép vật liệu nổ“ đã được xóa án tích; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/5/2019 đến ngày 03/9/2019 được thay thế biện pháp tạm giam bằng biện pháp bảo lĩnh. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người chứng kiến: Anh Trần Văn T, sinh năm: 1978; Trú tại: thôn P, xã C, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng giữa tháng 04/2019, có một người đàn ông gọi điện thoại cho Nguyễn Thị T giới thiệu ở huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh hỏi mua 20 -30kg thuốc nổ, Tùng nói không có, nếu khi nào có sẽ báo lại. Khoảng cuối tháng 4/2019, khi Tùng đang ở nhà mình thì có một người phụ nữ bán cá vào xin nước uống, người này giới thiệu tên Hồng quê ở Quảng Bình, Tùng hỏi “Trong Quảng Bình có thuốc nổ bán không”, người phụ nữ trả lời “Có”, nghe vậy, Nguyễn Thị T hỏi mua 30kg thuốc nổ, cả hai thống nhất giá 550.000đồng/kg. Khoảng 05 ngày sau, người phụ nữ tên H chở 30kg thuốc nổ đựng trong 06 túi ni lông đến bán cho T với giá 16.500.000đồng. Sau khi mua được thuốc nổ, Nguyễn Thị T đem giấu ở phía sau tường nhà, sát phòng ngủ của gia đình, lấy vỏ bao xi măng phủ lên.
Ngày 07/5/2019, người đàn ông ở Kỳ Anh gọi điện thoại cho Nguyễn Thị T hỏi “Có thuốc nổ chưa”, Tùng trả lời “Hiện có 30kg, giá 600.000đồng/kg” người đàn ông ở Kỳ Anh đồng ý mua và hẹn sáng 08/5/2019 gặp nhau tại cổng chào xã Cẩm Trung, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh để giao nhận thuốc nổ. Sáng ngày 08/5/2019, người đàn ông ở Kỳ Anh gọi điện hẹn T khoảng 09 giờ đưa thuốc nổ đến địa điểm đã hẹn để giao thuốc nổ và nhận tiền, sau khi nhận điện thoại, Nguyễn Thị T lấy 06 túi ni lông đựng thuốc nổ bỏ vào thùng xốp và dùng băng dính dán kín lại, để lên xe mô tô nhãn hiệu Honda biển kiểm soát 38X1-114.65 chở ra xã cấm Trung để giao cho người mua. Khoảng 09 giờ 50 phút cùng ngày, khi Nguyễn Thị T đang chở số thuốc nổ trên đến địa bàn xã Cẩm Lĩnh, huyện Cẩm Xuyên thị bị lực lượng chức năng phát hiện bắt giữ.
Về vật chứng thu giữ: 01 thùng xốp bên trong đựng 06 túi ni lông chứa các cục chất rán màu vàng, kích thước không đều nhau; 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda, biển kiểm soát 38X1-114.65; 01 đăng ký ô tô mang tên Nguyễn Thị T; 01 điện thoại hiệu Samsung màu vàng đồng, đã qua sử dụng.
Tại kết luận giám định số 179/GĐVLN-PC09 ngày 13/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh kết luận: Các cục chất rán màu vàng, kích thước không đều nhau đựng trong 06 túi ni lông thu giữ của Nguyễn Thị T gửi đến giám định có tổng khối lượng 29,64kg là thuốc nổ Trinitro Toluen (TNT), vẫn còn sử dụng được.
Tại kết luận giám định số 297/KLGĐ ngày 28/8/2019 của Viện pháp y tâm thần Trung ương kết luận: Nguyễn Thị T có tiền sử đã điều trị bệnh rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm, đã điều trị khỏi. Trước, trong khi thực hiện hành vi phạm tội ngày 08/5/2019 và tại thời điểm giám định Nguyễn Thị T không có bệnh tâm thần. Tại các thời điểm trên, Nguyễn Thị T đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.
Với hành vi phạm tội nêu trên, tại bản án Hỉnh sự sơ thẩm số: 59/2019/HS-ST ngày 27/12/2019 của Tòa án nhân dân huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh quyết định:
Căn cứ điểm b Khoản 2 Điều 305; Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị T phạm tội Tàng trữ, vận chuyển trái phép vật liệu nổ.
2. Về hình phạt: Nguyễn Thị T 03 (Ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án. Khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam cho bị cáo từ ngày 08/5/2019 đến ngày 03/9/2019.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng và buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự; tuyên quyền kháng cáo của bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật.
Trong hạn luật định, bị cáo Nguyễn Thị T kháng cáo xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo vẫn giữ nguyên kháng cáo, đề nghị Tòa phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Bị cáo không yêu cầu làm rõ thêm tình tiết gì của vụ án, đồng ý với tội danh mà HĐXX sơ thẩm đã tuyên.
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố xét xử phúc thẩm vụ án đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e, khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị T cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Theo lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Thị T tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của người làm chứng cũng như lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy hành vi phạm tội của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ, vận chuyển trái phép vật liệu nổ” được quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 305 Bộ luật hình sự , theo đó bản án hình sự sơ thẩm số 59/2019/HS-ST ngày 27-12-2019 của TAND huyện Cẩm Xuyên quyết định tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị T phạm tội “Tàng trữ, vận chuyển trái phép vật liệu nổ” là đúng người, đúng tội, có căn cứ, đúng pháp luật.
[2] Xét tính chất, hành vi phạm tội và nội dung kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[2.1] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước đối với thuốc nổ. Trong những năm qua, Nhà nước ta đã áp dụng nhiều biện pháp, hình thức để tuyên truyền vận động nhân dân không tham gia sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép các loại thuốc nổ nhưng vì muốn hưởng lợi bất chính nên bị cáo Nguyễn Thị T vẫn cố ý tàng trữ, vận chuyển trái phép vật liệu nổ để bán kiếm lời. Do đó, hành vi của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật nhàm răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.
[2.2] Xét về nội dung kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị T xin được hưởng án treo: Trong quá trình điều tra cũng như các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, bị cáo thành khẩn khai báo, bản thân bị cáo là người không biết chữ, nhận thức pháp luật còn hạn chế, tuổi đã cao, sức khỏe yếu, tiền sử bị bệnh rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm, sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo thường xuyên phải điều trị tại bệnh viện; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, là hộ nghèo trong nhiều năm liên tục; trong 04 người con của bị cáo thì có 02 người bị tàn tật, 01 người đã mất, người còn lại bị tàn tật từ nhỏ không điều khiển được hành vi của mình, mọi sinh hoạt đều phụ thuộc vào bị cáo và chồng, chính quyền địa phương và giáo xứ nơi bị cáo sinh sống đều xác nhận và đề nghị xem xét cho bị cáo; chồng bị cáo tuổi đã cao, không còn khả năng lao động, từng tham gia kháng chiến chống Mỹ, được hưởng chế độ trợ cấp một lần. Xét hoàn cảnh gia đình của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ thì HĐXX thấy ràng chưa cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo, cải tạo tại địa phương cũng đủ nghiêm để bị cáo ổn định sức khỏe, có điều kiện chăm sóc cho người con bị tật nguyền, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
[3] Bị cáo Nguyễn Thị T thuộc diện hộ nghèo, là người cao tuổi, thuộc trường hợp được miễn án phí theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 BLTTHS năm 2015
Chấp nhận nội dung đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị T, sửa bản án sơ thẩm số 59/2019/HS-ST ngày 27-12-2019 của Tòa án nhân dân huyện Cẩm Xuyên về phần hình phạt.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị T phạm tội “Tàng trữ, vận chuyển trái phép vật liệu nổ”.
Áp dụng Điểm b khoản 2 Điều 305; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt Nguyễn Thị T 03 (ba) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Thị T được miễn án phí hình sự sơ thẩm và án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án 147/2020/HS-PT ngày 30/09/2020 về tội tàng trữ, vận chuyển trái phép vật liệu nổ
Số hiệu: | 147/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/09/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về