Bản án 147/2020/HNGĐ-ST ngày 14/07/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 147/2020/HNGĐ-ST NGÀY 14/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 14 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 51/2020/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 02 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 222/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Lê Thị Thùy V, sinh năm 1998. (xin vắng mặt) Địa chỉ: Ấp 4, xã TL, huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An.

Bị đơn: Nguyễn Văn B, sinh năm 1992. (xin vắng mặt) Địa chỉ: Ấp A, xã ANT, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 03 tháng 02 năm 2020, nguyên đơn bà Lê Thị Thùy V trình bày: Bà và ông Nguyễn Văn B chung sống với nhau năm 2017, có đăng ký kết hôn tại UBND xã TL, huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An ngày 18/9/2017. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến năm 2018, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn với nhau về tình cảm. Ông B đi uống rượu về chửi, đuổi bà đi, không quan tâm chăm sóc vợ con, không lo làm ăn. Vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau nên sống ly thân từ cuối năm 2018 cho đến nay. Thấy rằng cuộc sống chung không hạnh phúc nên bà xin ly hôn với ông B.

Về con chung: Quá trình chung sống, bà và ông B có một con chung tên Nguyễn Lê Gia M, sinh ngày 08/6/2018, đang sinh sống với tôi. Khi ly hôn, bà yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu ông B cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Bị đơn ông Nguyễn Văn B trình bày tại biên bản ghi lời khai ngày 01/7/2020: Ông thống nhất với lời trình bày của bà V về điều kiện kết hôn, con chung, giữa ông và bà V có mâu thuẫn với nhau, bất đồng quan điểm sống. Vợ chồng đã ly thân từ cuối năm 2018 đến nay. Nay bà V xin ly hôn thì ông đồng ý.

Về con chung: Quá trình chung sống, ông và bà V có con chung tên Nguyễn Lê Gia M, sinh ngày 08/6/2018, đang sống chung với bà V. Sau khi ly hôn, ông đồng ý giao con cho bà V nuôi. Ông không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, các văn bản tố tụng cần thiết, đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và các thủ tục theo pháp luật quy định. Bà V có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nên đưa vụ án ra xét xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Bà Lê Thị Thùy V khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Văn B, có hộ khẩu thường trú tại ấp A, xã ANT, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Tại phiên tòa, nguyên đơn bà V, bị đơn ông B có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Bà V và ông B chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại UBND xã TL, huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An ngày 18/9/2017 nên hôn nhân giữa ông bà là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Về yêu cầu ly hôn: Trong quá trình chung sống, bà V cho rằng năm 2018, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn với nhau về tình cảm. Ông B đi uống rượu về chửi, đuổi bà đi, không quan tâm chăm sóc vợ con, không lo làm ăn. Vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau nên sống ly thân từ cuối năm 2018 cho đến nay. Thấy rằng cuộc sống chung không hạnh phúc nên bà xin ly hôn với ông B. Ông B cho rằng giữa ông và bà V có mâu thuẫn với nhau, bất đồng quan điểm sống. Vợ chồng đã ly thân từ cuối năm 2018 đến nay. Nay bà V xin ly hôn thì ông đồng ý. Tại phiên tòa hôm nay, ông B, bà V xin vắng mặt, chứng tỏ ông bà không có thiện chí để hàn gắn. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, đời sống chung không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, xét yêu cầu xin ly hôn của bà V đối với ông B là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Về con chung: Quá trình chung sống, bà V và ông B có một con chung tên Nguyễn Lê Gia Minh, sinh ngày 08/6/2018. Khi ly hôn, bà V yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu ông B cấp dưỡng. Xét thấy, ông B đồng ý giao con chung cho bà V nuôi dưỡng nên Hội đồng xét xử ghi nhận là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Bà V không yêu cầu ông B cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về tài sản chung và nợ chung: Bà V và ông B đều xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về án phí: Bà V phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Thùy V đối với ông Nguyễn Văn B về việc “Ly hôn”.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Thùy V được ly hôn với ông Nguyễn Văn B.

2. Về con chung: Bà V được quyền tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Lê Gia Minh, sinh ngày 08/6/2018, đang sống chung với bà V. Ông B không phải cấp dưỡng nuôi con do bà V không có yêu cầu.

Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Bà V phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0004542 ngày 03/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An để thi hành. Bà V đã nộp đủ.

Án xử sơ thẩm, công khai, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 147/2020/HNGĐ-ST ngày 14/07/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:147/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;