Bản án 147/2019/HS-ST ngày 13/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 147/2019/HS-ST NGÀY 13/06/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13/6/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 120/2019/TLST-HS ngày 10/5/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 145/2019/QĐXXST-HS ngày 31/5/2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Phan Văn Ph (Tên gọi khác: Không); sinh ngày 12 tháng 07 năm 1995, tại tỉnh: Đắk Lắk; Nơi cư trú: Thôn X, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 4/12; Con ông Phan Văn H (đã chết); Con bà: Lê Thị Ng, sinh năm: 1972, hiện trú tại: thôn X, xã H, thành phố B; gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án; tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày ngày 06/3/2019, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an Tp. Buôn Ma Thuột - Có mặt.

- Người chứng kiến:

+ Ông Phan Kim T và ông Đỗ Khắc V (Cùng địa chỉ: Thôn Y, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk).

+ Bà Bùi Thị N (Địa chỉ: Thôn Z, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk).

(Những người chứng kiến đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phan Văn Ph là người không có việc làm ổn định, nên đã nảy sinh ý định mua ma túy loại “Cỏ Mỹ” bán lại cho người khác để kiếm lời. Thông qua bạn bè ngoài xã hội, Ph quen biết người đàn ông tên B (chưa rõ nhân thân, lai lịch) ở khu vực đường AmaJhao, phường Tân Lập, thành phố Buôn Ma Thuột và mua “Cỏ Mỹ” của B đem về phân ra thành các gói nhỏ bán với giá từ 30.000đ – 50.000đ và 100.000đ/1 gói. Hàng ngày Ph ở trong căn phòng trọ tại; thôn X, xã H, thành phố B, khóa kín cửa, khi có người đến mua đưa tiền qua khe hở của cửa thì Ph đưa gói “Cỏ Mỹ” cho người mua. Ngoài ra mỗi khi có người gọi điện thoại di động hỏi mua “cỏ Mỹ” Ph hẹn đến địa điểm cố định để giao dịch mua bán. Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 11/9/2018 khi Ph đang ở tại phòng trọ thì lực lượng Công an thành phố Buôn Ma Thuột đến kiểm tra phát hiện thu giữ của Ph vật chứng gồm: 07 gói nylon màu trắng chứa chất thực vật khô màu xanh và 01 gói nylon màu bạc loại lớn chứa chất thực vật khô màu xanh được niêm phong theo quy định pháp luật.

Tại bản kết luận giám định số 6939/C09-TT2 ngày 19/12/2018 của Viện khoa học Bộ công an, kết luận: Các mẫu thảo mộc khô giám định có chứa thành phần 5F-MDMB-Pica (là loại cần sa tổng hợp có tác dụng tương tự hoạt chất Delta 9-THC trong cần sa), hiện không nằm trong danh mục các chất ma túy và tiền chất ma túy do Chính phủ Việt Nam ban hành. Không tìm thấy chất ma túy trong các mẫu thảo mộc khô đựng trong 07 gói nylon màu trắng và 01 gói nylon màu bạc. Khối lượng mẫu thảo mộc khô đựng trong 07 gói nylon màu trắng là 17,251gam. Khối lượng mẫu thảo mộc khô đựng trong 01 gói nylon màu bạc là 103,160gam.

Mẫu vật còn lại sau giám định đựng trong 02 gói nylon chứa thảo mộc khô có khối lượng lần lượt là 15,190gam và 100,466gam được niêm phong trong 01 gói số: 6939/C09-TT2 của Viện khoa học hình sự Bộ công an.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột ngoài việc thu giữ “cỏ Mỹ” thì còn thu giữ của Ph: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, màu đen, gắn sim số: 0943301392.

Tại bản cáo trạng số 146/CT-VKS ngày 09/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Phan Văn Ph về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột đã luận tội, phân tích, chứng minh các tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội, cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Phan Văn Ph phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phan Văn Ph từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 02 gói nylon chứa thảo mộc khô có khối lượng lần lượt là 15,190gam và 100,466gam còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 gói số: 6939/C09-TT2 của Viện khoa học hình sự Bộ công an.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, màu đen, gắn sim số: 0943301392 là tài sản của bị cáo Ph dùng để liên lạc phạm tội.

Bị cáo Phan Văn Ph không có ý kiến tranh luận, bào chữa gì thêm, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Phan Văn Ph khai nhận: Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 19/11/2018 tại phòng trọ thuộc thôn X, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, Phan Văn Ph có hành vi tàng trữ trái phép 120,411gam ma túy loại “cỏ Mỹ” mục đích để bán cho các con nghiện thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột phát hiện bắt quả tang.

HĐXX xét thấy: Tại bản kết luận giám định số 6939/C09-TT2 ngày 19/12/2018 của Viện khoa học Bộ công an đối với mẫu giám định loại thảo mộc do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột thu giữ từ Phan Văn Ph thì không tìm thấy chất ma túy mà trong đó chỉ có chứa thành phần 5F- MDMB-Pica (là loại cần sa tổng hợp có tác dụng tương tự hoạt chất Delta 9-THC trong cần sa - hiện không nằm trong danh mục các chất ma túy và tiền chất ma túy do Chính phủ Việt Nam ban hành). Tuy nhiên theo tiết 1.4 mục 1 phần I Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 và khoản 2 Điều 1 Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC- BTP ngày 14/11/2015 quy định: “... Nếu chất được giám định không phải là chất ma túy, không phải là tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy, nhưng người thực hiện hành vi ý thức được rằng chất đó là chất ma túy hoặc chất đó là tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì tùy vào hành vi phạm tội cụ thể mà truy cứu trách nhiệm hình sự người đó theo tội danh quy định tại khoản 1 của điều luật tương ứng đối với các tội phạm về ma túy”.

Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, biên bản phạm tội quả tang và lời khai của người chứng kiến cùng các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa.

Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma thuột tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Phan Văn Ph phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Qua đó có đủ căn cứ kết luận: Bị cáo Phan Văn Ph có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại “cỏ Mỹ” nhằm mục đích để bán cho các con nghiện với trọng lượng thu giữ được là 120,411gam. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 BLHS.

Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.”

[2] Xét tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm và làm mất ổn định trị an xã hội. Bị cáo nhận thức được rằng, “cỏ Mỹ” là chất ma túy, đó là loại độc dược gây nghiện nên Nhà nước độc quyền quản lý và nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển, chiếm đoạt và sử dụng trái phép. Song do lối sống không lành mạnh, ý thức coi thường pháp luật, bị cáo Phan Văn Ph đã có có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại “cỏ Mỹ” nhằm mục đích để bán cho các con nghiện để kiếm lời. HĐXX xét thấy cần thiết áp dụng mức hình phạt nghiêm minh tương ứng với tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục riêng đồng thời răn đe, phòng ngừa chung trong đời sống xã hội về loại tội phạm này.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu nên cần xem xét, áp dụng cho bị cáo trong khi lượng hình, để giảm nhẹ một phần hình phạt, đồng thời thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta.

[4] Đối với các hành vi và đối tượng khác liên quan trong vụ án: Đối với người đàn ông tên B (người bán ma túy cho bị cáo) do bị cáo quen biết ngoài xã hội và không rõ nhân thân lai lịch. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Tp. Buôn Ma Thuột vẫn chưa xác minh được nhân thân, lai lịch của B. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Tp. Buôn Ma Thuột đã tách hành vi của B ra khỏi vụ án để tiếp tục xác minh, điều tra, xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

[5] Về các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với 02 gói nylon chứa thảo mộc khô có khối lượng lần lược là 15,190gam và 100,466gam được niêm phong trong 01 gói số: 6939/C09-TT2 của Viện khoa học hình sự Bộ công an là vật chứng của vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, màu đen, gắn sim số: 0943301392 là tài sản của bị cáo Ph dùng để liên lạc phạm tội nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

[6] Về hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình thực hiện các quyết định điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo Ph không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Về án phí: Bị cáo Phan Văn Ph phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Phan Văn Ph (Tên gọi khác: Không) phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Phan Văn Ph: 02 năm 06 tháng tù (Hai năm sáu tháng tù), về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 06/3/2019.

* Các biện pháp tư pháp:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 02 gói nylon chứa thảo mộc khô có khối lượng lần lượt là 15,190gam và 100,466gam được niêm phong trong 01 gói số: 6939/C09-TT2 của Viện khoa học hình sự Bộ công an là tang vật của vụ án.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, màu đen, gắn sim số: 0943301392 là tài sản của bị cáo sử dụng để liên lạc mua bán ma túy.

(Các tang vật có đặc điểm như trong biên bản giao nhân vật chứng, tài sản ngày 09/5/2019, giữa Công an Tp. Buôn Ma Thuột và Chi cục Thi hành án dân sự Tp. Buôn Ma Thuột).

* Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự, Áp dụng khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Phan Văn Ph phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

268
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 147/2019/HS-ST ngày 13/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:147/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;