TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 147/2019/DS-ST NGÀY 21/11/2019 VỀ YÊU CẦU BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SỨC KHỎE BỊ XÂM PHẠM
Từ ngày 18 đến ngày 21 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 163/2019/TLST-DS ngày 13 tháng 6 năm 2019 về việc yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 340/2019/QĐXXST-DS ngày 21 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị Hồng E, sinh năm 1970. (Có mặt)
Địa chỉ: Ấp N, xã P, huyện G, tỉnh Bến Tre.
2. Bị đơn:
- Bà Trần Thị Kim X, sinh năm 1975
- Ông Trần Văn N, sinh năm 1951
- Ông Trần Minh T, sinh năm 1980
- Bà Trần Thị Kim H, sinh năm 1991
- Bà Trần Thị Kim C, sinh năm 1978
Cùng địa chỉ: Ấp M, xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của ông N là ông Trần Minh T theo văn bản ủy quyền ngày 03/7/2019.
Người đại diện theo ủy quyền của bà C, bà H là bà Trần Thị Kim X theo văn bản ủy quyền ngày 01/7/2019 và ngày 03/7/2019.
Bà Trần Thị Kim X, ông Trần Minh T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt đề ngày 06/11/2019.
3. Người làm chứng do nguyên đơn mời: Ông Trần Văn S, sinh năm 1964 (Có mặt)
Địa chỉ: Ấp M, xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn bà Trần Thị Hồng E trình bày:
Vào ngày 20/3/2019, trong đám tang ông Trần Văn M (cha ruột của bà) thì giữa ông N và ông S (anh ruột của bà) có mâu thuẫn, tranh cãi và ẩu đả nhau. Thời điểm đó ngoài ông N còn có các con ông N là bà Trần Thị Kim X, bà Trần Thị Kim C, ông Trần Minh T và bà Trần Thị Kim H cùng tham gia đánh ông S. Lúc đó bà có nói với các con ông N là phận con cháu không được hỗn thì các con ông N quay sang chửi bà. Bà bỏ đi thì ông N chặn bà tại cửa rào và đánh bà một bạt tay. Sau đó ông N đẩy bà vào nhà và ông T nắm đuôi tóc đè đầu bà xuống cho bà X, bà C, bà H dùng nón bảo hiểm đánh nhiều cái vào đầu bà, đánh bao nhiêu cái bà không nhớ rõ. Sự việc xảy ra bà có làm đơn trình báo Công an xã Tân H. Công an xã Tân H có tổ chức hòa giải nhưng chỉ có bà X tham gia. Kết quả Ủy ban xã đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với bà X. Sau khi bị đánh ngày 21/3/2019 bà có đi khám tại trạm y tế xã P, không có sổ khám bệnh. Bà khám và điều trị ngoại trú, bác sĩ không có chỉ định cho bà nhập viện điều trị nên không có giấy y chứng. Bác sĩ cho bà thuốc uống 5 ngày, sau 05 ngày sẽ tái khám. Ngày 25/3/2019 bà tái khám và bác sĩ cho tiếp 03 ngày thuốc, sau khi uống 03 ngày thuốc thì đến nay bà không còn đau. Tổng tiền khám và tiền thuốc là 175.000 đồng. Hiện nay, bà nhận thấy đầu thường xuyên đau và tinh thần không ổn định nên bà yêu cầu các bị đơn bồi thường tổn thất tinh thần 10 tháng lương cơ bản với số tiền là 13.900.000 đồng. Tổng cộng là 14.075.000 đồng. Hiện nay mức lương cơ bản là 1.490.000 đồng/tháng nhưng bà vẫn giữ nguyên yêu cầu theo mức lương cơ bản là 1.390.000 đồng/tháng không có thay đổi. Đối với đoạn ghi âm bà cung cấp cho Tòa thì bà không có yêu cầu giám định tiếng nói của các bị đơn do bà đã cung cấp bản lược ghi và có ông Trần Văn S là người làm chứng đọc nội dung đoạn ghi âm cho bà.
Tại bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn bà Trần Thị Kim X (đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của bà Trần Thị Kim C, bà Trần Thị Kim H) có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nhưng có lời khai:
Thời gian xảy ra mâu thuẫn như bà E trình bày là đúng. Bà thừa nhận bà và ông N, bà C, bà H, ông T đều có mặt tại thời điểm xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do cha bà là ông N và các cô chú trong nhà không thống nhất với nhau về việc làm đám tang cho ông M (ông nội bà) nên ông N và ông S có cự cãi. Bà không có dùng nón bảo hiểm đánh bà E mà chỉ có dùng tay bịt miệng bà E để bà E không la lớn tiếng khiến bà con, hàng xóm nghe sẽ cười chê ngay trong đám tang của ông M. Bà có tham gia hòa giải tại Công an xã T và Ủy ban xã có ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với bà. Bà bị xử phạt hành chính không phải do bà đánh bà E mà do bà có đụng chạm thân thể là bịt miệng bà E. Bà H, bà C không có đánh bà E như bà E trình bày. Bà và bà H, bà C thừa nhận bà có những lời lẽ xúc phạm bà E là không đúng.
Đối với yêu cầu của bà E thì bà và bà H, bà C đồng ý bồi thường tiền thuốc là 175.000 đồng. Riêng đối với tiền bồi thường tổn thất tinh thần là 13.900.000 đồng thì không đồng ý bồi thường do bà và bà H, bà C không có đánh bà E, bà E cũng không có bị thương tích gì.
Tại bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa bị đơn ông Trần Minh T (đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của ông Trần Văn N) có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nhưng có lời khai:
Ông và ông N thống nhất với lời trình bày của bà X. Ông và ông N không có đánh bà E như bà E trình bày. Đối với yêu cầu của bà E thì ông và ông N đồng ý liên đới cùng bà X, bà H, bà C bồi thường tiền thuốc cho bà E là 175.000 đồng. Riêng đối với tiền bồi thường tổn thất tinh thần là 13.900.000 đồng thì không đồng ý bồi thường do ông và ông N không có đánh bà E và bà E cũng không có bị thương tích gì.
Tại biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa người làm chứng cho bà E là ông Trần Văn S trình bày: Ông là anh của bà Trần Thị Hồng E, là em của ông Trần Văn N, là chú của ông T, bà X, bà H, bà C. Sự việc đánh nhau xuất phát từ việc ông có nói đến vấn đề lo chi phí đám tang cho ông M trước mặt anh chị em trong gia đình thì bà X, bà H, bà C dùng nón bảo hiểm lao vào đánh ông nhiều cái. Sau đó ông N và các con ông N quay sang chửi, đánh bà E. Ông xác định ông N và các con ông N cùng tham gia đánh bà E. Ông T nắm đuôi tóc đè đầu bà E xuống cho bà C, bà H, bà X đánh bà E. Bà C, bà H, bà X dùng nón bảo hiểm đánh bà E nhiều cái. Ông xác định có biết đoạn ghi âm và bản lược ghi do bà E cung cấp cho tòa án và nội dung bản lược ghi tòa công bố là đúng.
Kiểm sát viên Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:
- Về việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thẩm phán, Thư ký: Thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 71, 72 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Hồng E về việc yêu cầu ông N, bà C, bà H, ông T, bà X có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm số tiền là 175.000 đồng. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hồng E về việc yêu cầu ông N, bà C, bà H, ông T, bà X bồi thường tổn thất tinh thần số tiền 13.900.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; ý kiến của đương sự và Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Bà Trần Thị Hồng E khởi kiện yêu cầu bà Trần Thị Kim X, bà Trần Thị Kim C, ông Trần Minh T và bà Trần Thị Kim H; Cùng địa chỉ: Ấp M, xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm là vụ án dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm theo quy định tại khoản 6 Điều 26, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bà Trần Thị Kim X, ông Trần Minh T là người đại diện theo ủy quyền của bà Trần Thị Kim C, bà Trần Thị Kim H, ông Trần Văn N có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nên tòa án tiến hành giải quyết vụ kiện vắng mặt bà X, ông T là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
[2] Về nội dung: Các bên đương sự đều thống nhất vào sáng ngày 20/3/2019 trong lúc tổ chức đám tang cho ông Trần Văn M (là cha ruột bà Trần Thị Hồng E, ông Trần Văn N, là ông nội bà Trần Thị Kim X, ông Trần Minh T, bà Trần Thị Kim H, bà Trần Thị Kim C) tại nhà ông M thì hai bên phát sinh mâu thuẫn dẫn đến cự cãi và ẩu đã nhau. Theo đó, bà E cho rằng ông N có đánh bà một bạt tay và các con ông N là ông T nắm đuôi tóc đè đầu bà xuống cho bà X, bà C, bà H dùng nón bảo hiểm đánh nhiều cái vào đầu bà gây thương tích, tinh thần thường xuyên không ổn định nên bà yêu cầu các bị đơn liên đới bồi thường cho bà số tiền thuốc là 175.000 đồng và tiền tổn thất tinh thần là 13.900.000 đồng. Phía bị đơn thì cho rằng bà X có dùng tay bịt miệng và đánh vào mặt bà E, bà X không có dùng nón bảo hiểm để đánh. Riêng ông N, ông T, bà H, bà C không có đánh bà Hồng E. Do đó các bị đơn chỉ đồng ý bồi thường tiền thuốc, không đồng ý bồi thường tiền tổn thất tinh thần.
[2.1] Xét chứng cứ là đoạn ghi âm do nguyên đơn cung cấp thể hiện tại thời điểm xảy ra ẩu đã thì các bị đơn đều có mặt. Các bị đơn thừa nhận việc này và bà X thừa nhận có dùng tay bịt miệng và đánh bà E nên đây là chứng cứ không cần phải chứng minh theo quy định tại điều 92 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Các bị đơn không thừa nhận tiếng nói trong đoạn ghi âm là của các bị đơn vì tiếng nói trong đoạn ghi âm rất hỗn độn nên không xác định được tiếng nói của ai. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa bà E không có yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định tiếng nói của các bị đơn do bà đã cung cấp nội dung bản lược ghi và có ông Trần Văn S (anh của bà E và em của ông N) là người làm chứng chứng kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[2.2] Bà E cho rằng các bị đơn cùng tham gia đánh bà. Còn bị đơn là ông N, ông T, bà H, bà C thì không thừa nhận có đánh bà E. Xét thấy, tại biên bản lấy lời khai cũng như tại tòa người làm chứng là ông S xác định ông N và các con ông N có tham gia đánh bà E. Ông T có nắm đuôi tóc đè đầu bà E xuống cho bà X, bà H, bà C dùng nón bảo hiểm đánh bà E nhiều cái. Tuy nhiên, tại các biên bản lấy lời khai người làm chứng theo yêu cầu của bà E thì người làm chứng thứ nhất xác định chỉ thấy bà X dùng tay đánh mà không có dùng nón bảo hiểm để đánh bà E, còn ông N, ông T, bà H, bà C có tham gia đánh hay không thì không biết. Người làm chứng thứ hai thì xác định không có chứng kiến việc đánh nhau giữa hai bên mà chỉ nghe tường thuật lại. Ngoài ra, tại các biên bản xác minh vụ việc do Công an xã T cung cấp thì những người làm chứng cũng xác định chỉ có bà X trực tiếp đánh bà E, dùng tay đánh, không thấy có ai khác tham gia đánh. Với hành vi xâm phạm sức khỏe của bà E thì Công an xã đã lập biên bản vi phạm hành chính đối với bà X và Ủy ban nhân dân xã T đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Ông N, ông T, bà H, bà C không bị xử phạt. Bà E và các bị đơn biết quyết định xử phạt nêu trên nhưng không có ý kiến hai khiếu nại gì thì xem như đồng ý. Mặc khác, nội dung bản lược ghi đoạn ghi âm do bà E cung cấp, được người làm chứng ông S xác định là đúng cũng không thể hiện rõ nội dung các bị đơn cùng tham gia đánh bà E. Như vậy, chưa có đủ cơ sở để xác định ông N, ông T, bà H, bà C cùng tham gia đánh bà E nên không chấp nhận.
[2.2] Đối với yêu cầu bồi thường tiền thuốc chữa trị là 175.000 đồng. Xét thấy: Bà X thừa nhận có hành vi dùng tay bịt miệng và đánh bà E là đã xâm phạm đến sức khỏe của bà E. Căn cứ vào các hóa đơn khám bệnh và đơn thuốc do bà E cung cấp với tổng số tiền điều trị là 175.000 đồng. Đây là chi phí hợp lý để khắc phục hậu quả do hành vi đánh của bà X gây ra. Bà X cùng các bị đơn đồng ý bồi thường số tiền nêu trên cho bà E nên được chấp nhận.
[2.3] Đối với yêu cầu bồi thường tiền tổn thất tinh thần 13.900.000 đồng. Bà E cho rằng sau khi bị đánh thì bà thường xuyên hoãn loạn, tinh thần không ổn định và rất sợ những nơi đông người. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa bà E đều khẳng định, sau khi bị đánh thì bà chỉ đi khám và điều trị tại Trạm y tế xã P, bà điều trị ngoại trú và bác sĩ không có chỉ định bà nằm viện để điều trị nên bà không có giấy y chứng để làm căn cứ cho việc giám định tỷ lệ thương tật. Sau thời gian khám và uống thuốc 8 ngày thì bà không còn đau. Hơn nữa, trong thời gian điều trị thì bà vẫn đi làm và tự mình sinh hoạt cá nhân trong gia đình bình thường. Như vậy, không có đủ căn cứ để xác định bà E bị tổn thất tinh thần do hành vi đánh của bà X gây ra nên không chấp nhận. Như phân tích nêu trên thì yêu cầu khởi kiện của bà E là có căn cứ được chấp nhận một phần. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà E về yêu cầu bồi thường tiền tổn thất tinh thần.
[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của bà E được chấp nhận một phần nên ông N, ông T, bà X, bà H, bà C phải chịu án phí theo quy định là 300.000 đồng. Tuy nhiên, do ông N là người cao tuổi nên được miễn nộp tiền án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Đối với yêu cầu của bà Trần Thị Hồng E không được chấp nhận thì bà phải chịu án phí. Tuy nhiên, bà E được miễn nộp toàn bộ án phí theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
[4] Ý kiến của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử được chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147, 228, 273, 278 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Các Điều 584, 585, 590 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Hồng E về việc yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm đối với các bị đơn bà Trần Thị Kim X, bà Trần Thị Kim C, ông Trần Minh T, ông Trần Văn N và bà Trần Thị Kim H.
Buộc ông Trần Văn N, bà Trần Thị Kim X, bà Trần Thị Kim C, ông Trần Minh T và bà Trần Thị Kim H có trách nhiệm liên đới bồi thường cho bà Trần Thị Hồng E số tiền 175.000đ (Một trăm bảy mươi lăm ngàn đồng).
Kể từ ngày quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Không chấp nhận yêu cầu của bà Trần Thị Hồng E về việc yêu cầu bà Trần Thị Kim X, bà Trần Thị Kim C, ông Trần Minh T, ông Trần Văn N và bà Trần Thị Kim H bồi thường tổn thất tinh thần với số tiền là 13.900.000 đồng.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Bà Trần Thị Hồng E, ông Trần Văn N được miễn nộp.
- Bà Trần Thị Kim X, bà Trần Thị Kim C, ông Trần Minh T và bà Trần Thị Kim H có trách nhiệm liên đới chịu số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).
Quyền kháng cáo, kháng nghị: Các đương sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kháng nghị bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được thông báo, niêm yết.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 147/2019/DS-ST ngày 21/11/2019 về yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm
Số hiệu: | 147/2019/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 21/11/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về