Bản án 147/2017/HNGĐ-ST ngày 16/08/2017 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO BẰNG, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 147/2017/HNGĐ-ST NGÀY 16/08/2017 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 16 tháng 8 năm 2017 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 98/2017/TLST- HNGĐ ngày 06 tháng 6 năm 2017 về tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con" theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 106/2017/QĐXXST- HNGĐ ngày 02 tháng 8 năm 2017 giữa các đương sự:

Nguyên đơn:  Anh Trần Văn T - Sinh năm 1987; Dân tộc: Kinh;

Cư trú tại: SN 0HC, tổ HH, phường SH, thành phố CB, tỉnh Cao Bằng; (Có mặt).

Bị đơn:  Chị Lục Thị T - Sinh năm 1987; Dân tộc: Tày;

HKTT: Phố C, thị trấn QU, huyện QU, tỉnh Cao Bằng;

Cư trú tại: Tổ HH, phường SB, thành phố CB, tỉnh Cao Bằng;

(Hiện nay đang chấp hành hình phạt tù tại Đội H, K1, phân trại số M, trại giam Quyết Tiến, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang).

(Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 17/5/2017 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn là anh Trần Văn T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Trần Văn T và chị Lục Thị T kết hôn vào năm 2009, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có được tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới ở hai bên gia đình, ngày 24/02/2011 có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường SB, thành phố CB, tỉnh Cao Bằng. Khi cưới, cả hai vợ chồng đều là lao động tự do.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến khoảng năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm, tính tình không hòa hợp. Hai bên thường xuyên cãi vã, xô xát nhau. Quá trình mâu thuẫn hai vợ chồng đã tự hòa giải và gia đình  khuyên bảo nhiều lần nhưng đều không đạt kết quả, mâu thuẫn vẫn tiếp tục xảy ra. Năm 2015 chị T bị Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng xử phạt 04 năm tù về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" và hiện đang chấp hành hình phạt tù tại Trại giam Quyết Tiến, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Tại tòa anh T xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn không thể hòa giải được và yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với chị T.

- Về con chung: Quá trình chung sống anh T và chị T có 01 con chung tên là Trần Văn Hải T (Giới tính: Nam) - sinh ngày 04/3/2011, hiện nay con chung đang ở cùng anh T; Sau khi ly hôn, con chung sẽ do anh T là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục con chung cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, không đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Anh T xác nhận vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu tòa án giải quyết.

Nợ chung, nợ riêng: Không có, không yêu cầu tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai của chị Lục Thị T ngày 24/7/2017 (Có xác nhận của Ban giám thị trại giam Quyết Tiến), bị đơn là chị Lục Thị T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị T nhất trí với ý kiến của anh T về điều kiện và thời gian kết hôn. Chị T xác định vợ chồng có mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm và tính tình không hòa hợp. Đến nay, mâu thuẫn xảy ra ngày càng trầm trọng và không thể hàn gắn được tình cảm. Đồng thời, chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn; anh T yêu cầu ly hôn, chị T nhất trí. Đề nghị tòa giải quyết ly hôn.

- Về con chung: Chị T xác nhận quá trình chung sống anh T và chị T có 01 con chung tên là Trần Văn Hải T (Giới tính: Nam) - sinh ngày 04/3/2011, hiện nay con chung đang ở cùng anh T; Do hiện nay bản thân chị T đang chấp hành hình phạt tù nên sau khi ly hôn, con chung sẽ do anh T sẽ là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục con chung cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, không đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị T xác nhận vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung, nợ riêng và không yêu cầu tòa án giải quyết. 

Đồng thời chị T yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng xét xử ly hôn vắng mặt chị T.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng ra Quyết định ủy thác thu thập chứng cứ số 08/2017/QĐ - TUTA ngày 20/6/2017 cho Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang tiến hành tống đạt thông báo thụ lý cho chị Lục Thị T, cho chị T viết bản tự khai và lập biên bản lấy lời khai trong trường hợp chị T khai không đầy đủ.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng phát biểu: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đồng thời, Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát nhận thấy anh T và chị T đều thừa nhận vợ chồng có mâu thuẫn, cả hai bên đều xác định tình cảm vợ chồng không còn và nhất trí thuận tình ly hôn, do đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn ly hôn của anh T, cho anh T được ly hôn với chị T. Về con chung: Hai bên đã thỏa thuận được với nhau nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét và công nhận. Về tài sản chung, nợ chung, nợ riêng: Anh T và chị T đều xác nhận không có nên không đặt ra vấn đề giải quyết. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét và ban hành bản án.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, sau khi xem xét đầy đủ ý kiến trình bày của nguyên đơn, bị đơn, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử xét thấy:

1. Về mặt tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng đã có ủy thác cho Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang tống đạt Thông báo thụ lý vụ án cho bị đơn là chị Lục Thị T hiện đang chấp hành hình phạt tù tại trại giam Quyết Tiến. Đồng thời, tiến hành cho chị T viết bản tự khai theo đúng quy định của pháp luật. Do vậy, vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 2 Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự.

Chị T đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng xét xử vắng mặt chị T.

Do đó Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

2. Về hôn nhân: Anh Trần Văn T kết hôn với chị Lục Thị T năm 2009, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có được tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới ở hai bên gia đình; ngày 24/02/2011 có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường SB, thành phố CB, tỉnh Cao Bằng. Như vậy quan hệ hôn nhân giữa anh Trần Văn T và chị Lục Thị T là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

3. Về yêu cầu ly hôn của nguyên đơn:

Tòa án tiến hành xác minh nguyên nhân mâu thuẫn tại nơi cư trú của anh T và chị T, kết quả xác minh cho thấy anh T và chị T có phát sinh mâu thuẫn với nhau khoảng cuối năm 2014 và nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, tính tình không hòa hợp.

Hội đồng xét xử xét thấy: Anh T và chị T đều thừa nhận hai vợ chồng trong quá trình chung sống có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống và do mâu thuẫn về kinh tế. Sau khi mâu thuẫn xảy ra, mặc dù anh T và chị T được hòa giải nhiều lần nhưng vẫn không khắc phục được tình cảm, vợ chồng không còn không quan tâm đến nhau. Trong khi đó, quyền và nghĩa vụ vợ chồng được quy định trong Luật hôn nhân gia đình, tại Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: "Vợ chồng có nghĩa vụ, thương yêu, chung thuỷ, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình". Như vậy,  anh T và chị T đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, không còn quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau về mọi mặt trong cuộc sống gia đình, ai biết bổn phận của người đó. Hơn nữa, theo như các bản tự khai trong quá trình giải quyết vụ án, anh T và chị T đều xác định không còn tình cảm vợ chồng và yêu cầu tòa giải quyết cho ly hôn.

Xét thấy, quan hệ vợ chồng giữa anh T và chị T lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn đã được hòa giải nhiều lần nhưng đều không đạt kết quả và đủ căn cứ cho ly hôn quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình: "Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được". Do đó, cho anh T và chị T ly hôn theo đơn khởi kiện của anh T, ý kiến của chị T cũng như quan điểm về việc giải quyết vụ án của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ.

4. Về nuôi con chung: Anh T và chị T có 01 con chung tên là Trần Văn Hải T (Giới tính: Nam) - sinh ngày 04/3/2011. Do hiện nay bị đơn là chị T đang chấp hành hình phạt tù tại Trại giam Quyết Tiến, cho nên anh T và chị T đều thống nhất con chung sẽ do anh T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con chung đủ tuổi trưởng thành, không đặt ra vấn đề trợ cấp nuôi con chung. Hội đồng xét xử xét thấy: Căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh hiện nay của anh T và chị T cần chấp nhận giao con chung cho anh T là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục cho đến khi con đủ 18 tuổi là phù hợp, đảm bảo điều kiện vật chất và nhu cầu phát triển toàn diện về mọi mặt của con chung.

5. Về chia tài sản chung: Anh T và chị T đều xác nhận không có tài sản chung. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra vấn đề giải quyết.

Nợ chung, nợ riêng: Hội đồng xét xử không đặt ra vấn đề xem xét, giải quyết do hai bên đương sự xác nhận không có nợ chung, nợ riêng và không yêu cầu tòa án giải quyết.

6. Về án phí: Anh T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Áp dụng khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Trần Văn T và chị Lục Thị T.

2. Về nuôi con chung: Giao con chung tên là Trần Văn Hải T (Giới tính: Nam) - sinh ngày 04/3/2011cho anh Trần Văn T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung cho đến khi con chung đủ tuổi trưởng thành. Không đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con.

3. Về chia tài sản chung: Không có, không đặt ra vấn đề xem xét, giải quyết.

- Về nợ chung, nợ riêng: Không có, không đặt ra vấn đề xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Anh Trần Văn T phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm để sung công quỹ nhà nước nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm anh T đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số AA/2016/0000124 ngày 05/6/2017 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cao Bằng. Anh T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Anh Trần Văn T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Lục Thị T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 147/2017/HNGĐ-ST ngày 16/08/2017 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:147/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Bằng - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;