Bản án 146/2017/HSST ngày 27/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y, TỈNH B

BẢN ÁN 146/2017/HSST NGÀY 27/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Y mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 116/2017/HSST, ngày 30 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:

Hoàng Đình D, sinh năm 1991.

Trú tại: Xóm 8, xã C, huyện Th, tỉnh Ng; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Công nhân; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Đình S, sinh năm 1954 và bà Trần Thị L, sinh năm 1955; gia đình có 05 chị em, bị cáo là út; vợ là Nguyễn Thị Thúy H, sinh năm 1993; có 01 con sinh năm 2017.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/6/2017 đến nay (có mặt tại phiên toà).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Y truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 21h ngày 21/6/2017 tại quán cafe Ch ở Khu đô thị mới, thị trấn Ch, huyện Y, tỉnh B. Công an huyện Y đã tiến hành kiểm tra bắt quả tang Hoàng Đình D đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ 01 túi nilon màu trắng, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng tại túi quần phía trước bên trái D đang mặc và 01 túi nilon màu trắng, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng tại túi quần phía trước bên phải Dũ đang mặc, D khai đó là ma túy đá mua về để sử dụng. Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, đồng thời niêm phong vật chứng có chữ ký của D, của người làm chứng rồi gửi đi giám định.

Tại bản kết luận giám định số: 869/KLGĐ-PC54, ngày 21/6/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B đã kết luận: “Chất dạng tinh thể màu trắng bên trong 02 túi nilon màu trắng có khối lượng 1,9682 gam, là ma túy; loại ma túy: Chất Methamphetamine”.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Hoàng Đình D khai nhận: Khoảng 20h ngày 21/6/2017, D đi xe ôm của một người đàn ông không quen biết từ phòng trọ thôn Ch, xã L, huyện Y lên thị trấn Ch mục đích mua ma túy để sử dụng. Khi đi đến quán cafe Ch ở Khu đô thị mới, thị trấn Ch thì D xuống xe đi bộ. Tại đây, D gặp một người phụ nữ không quen biết khoảng hơn 20 tuổi, cao khoảng 1.5m, người gầy, D hỏi: “chị có ma túy đá bán không?”, người phụ nữ trả lời: “có”. D đưa cho người phụ nữ 200.000đ, chị ta cầm tiền và đưa lại cho D 01 túi nilon màu trắng. D cầm gói ma túy đút vào túi quần phía trước bên trái đang mặc rồi đi bộ về phía quán cafe Ch. Đúng lúc này thì bị Công an huyện Y kiểm tra bắt quả tang bắt quả tang. Ngoài ra Công an có thu giữ tại túi quần phía trước bên phải D đang mặc 01 túi nilon màu trắng, D khai đó là ma túy đá D mua của người phụ nữ trên vào buổi tối ngày 20/6/2017 nhưng chưa kịp sử dụng.

Bản cáo trạng số: 112/CTr-VKS, ngày 29/8/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y truy tố Hoàng Đình D về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo khoản 1, điều 194 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Y đã đưa ra chứng cứ lý lẽ buộc tội Hoàng Đình D về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, điều 194; điều 33; điểm p, khoản 1, điều 46; điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14, ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3, điều 7; khoản 1, điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự xử phạt D từ 20 đến 24 tháng tù.

Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì mẫu vật còn lại sau giám định.

Bị cáo nhận tội, không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, lời khai của những người làm chứng, bản kết luận giám định và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21h ngày 21/6/2017 Hoàng Đình D đã có hành vi cất giữ trái phép 02 gói ma túy có khối lượng 1,9682 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng.

Căn cứ Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP, ngày 24/12/2007 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, Bộ tư pháp thì hành vi của Hoàng Đình D đã phạm tội tàng trữ trái phép chất ma tuý, phạm vào khoản 1, điều 194 của Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Y đã truy tố là đúng người, đúng tội.

Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, xâm phạm sức khoẻ và sự phát triển giống nòi của dân tộc, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, làm ảnh hưởng đến các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước, ma tuý cũng là nguyên nhân phát triển các tội phạm hình sự khác. Việc đấu tranh với các tội phạm về ma tuý hiện nay là nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân. Do vậy cần phải đưa ra xét xử kịp thời, có một hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Tại khoản 1, điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt từ 2 năm đến 7 năm. Tại khoản 1, điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 có khung hình phạt từ 1 năm đến 5 năm. Căn cứ Nghị quyết số: 41/2017/QH14, ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3, điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định một hình phạt nhẹ hơn và quy định khác có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.

Xét thấy, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay đã thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1, điều 46 Bộ luật hình sự, do vậy cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần khi quyết định hình phạt.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là đối tượng sử dụng chất ma túy, do vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Xét thấy số ma túy còn lại sau giám định là vật cấm sử dụng, cần tịch thu tiêu huỷ.

Về nguồn gốc số ma túy, Dũng khai mua của một người phụ nữ D không biết tên tuổi địa chỉ cụ thể, do vậy Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh làm rõ.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Hoàng Đình D phạm tội "tàng trữ trái phép chất ma tuý". Áp dụng vào khoản 1, điều 194; điều 33; điểm p, khoản 1, điều 46; điều 41 của Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết số: 41/2017/QH14, ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3, điều 7; khoản 1, điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 1, 3 điều 228; điểm a, khoản 2, điều 76; điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội qui định về án phí, lệ phí Toà án.

Xử phạt: Hoàng Đình D 22 (hai mươi hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/06/2017. Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày 27/9/2017 để đảm bảo thi hành án.

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định có đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B.

Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

356
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 146/2017/HSST ngày 27/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:146/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Phong - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;