Bản án 145/2024/HS-PT về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN SỐ 145/2024/HS-PT NGÀY 21/02/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 1583/2023/TLPT- HS ngày 27/12/2023 đối với bị cáo Nguyễn Tuấn P và đồng phạm do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 539/2023/HS-ST ngày 14 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

*Bị cáo có kháng cáo:

1. Nguyễn Tuấn P, sinh năm 1990; đăng ký hộ khẩu thường trú: tổ E, phường P, quận L, thành phố Hà Nội; chỗ ở: tổ B, phường L, quận L, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 11/12; con ông Nguyễn Trung T và bà Nguyễn Thị Kim H; có vợ là Lương Thanh T1; có 02 con: con lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/12/2022, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an thành phố H; Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Tuấn P:

Luật sư Đinh Anh T2 - Công ty L4 thuộc Đoàn luật sư thành phố H; Có mặt.

2. Nguyễn Thị G, sinh năm 1999; đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: Tổ A, phường S, quận L, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn:

10/12; con ông Nguyễn Hữu K và bà Lê Thị H1; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 14/01/2023 đến ngày 05/7/2023 được áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; Có mặt.

Bị cáo Phạm Văn H2 không kháng cáo, không bị kháng nghị tòa không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 23 giờ 20 phút ngày 19/12/2022, tại khu vực chung cư R, phường P, quận L, thành phố Hà Nội, Công an quận L kiểm tra Phạm Văn H2 phát hiện, thu giữ trên tay phải của H2 05 túi nylon màu cam bên trong đều chứa chất bột màu vàng. Đấu tranh tại chỗ, Phạm Văn H2 khai nhận các túi nylon chứa chất bột màu vàng trên là ma tuý “nước vui”, H2 mua mang về phòng 1109 toà B1, chung cư R để tổ chức sử dụng cùng nhóm bạn.

Phạm Văn H2 khai: Từ tháng 8/2022, Phạm Văn H2 thuê lại phòng 1109 toà B1, chung cư R, tại phường P, quận L, thành phố Hà Nội. Do có quan hệ tình cảm với Phạm Văn H2 nên Nguyễn Thị G thường xuyên đến ăn ở, sinh sống cùng H2. Đến ngày 19/12/2022, Phạm Văn H2 tổ chức liên hoan và mời nhóm đối tượng Lâm Chí C, Hoàng Văn L, Vũ Thu T3, Vũ Tùng L1, Lương Thành L2, Đào Văn Đ, Đoàn Thị Phương H3, Đoàn Thị T4, Hoàng Văn T5, Nguyễn Văn L3 đến ăn uống tại phòng 1109 tòa B, chung cư R, phường P, quận L, thành phố Hà Nội. Khoảng 19 giờ cùng ngày, Phạm Văn H2 lấy ma tuý Ketamine ra “xào”, đổ “nước vui” ra bát nhựa cùng 05 viên thuốc lắc đưa cho nhóm đối tượng trên sử dụng. Đến khoảng 21 giờ 30 phút, Nguyễn Thị G đi làm về sau, thấy mọi người sử dụng ma túy trong phòng nên cùng vào sử dụng. Tối cùng ngày, khi nhóm bạn H2 sử dụng gần hết ma túy, H2 lại gọi điện cho Nguyễn Tuấn P hỏi mua thêm 05 túi “nước vui” giá 12.500.000 đồng để nhóm bạn tiếp tục sử dụng, hẹn giao nhận tại sảnh tòa B, chung cư R, phường P, quận L, thành phố Hà Nội. H2 đi xuống sảnh toà B1, chung cư R còn G và những người khác vẫn ở trên phòng tiếp tục sử dụng ma tuý. Tại đây, H2 nhận 01 túi nylon bên trong đựng 05 túi “nước vui” từ Thẩm Đức S là lái xe taxi hãng Thế Kỷ M, khi H2 đang đi bộ quay lại phòng 1109 bị kiểm tra, bắt giữ như đã nêu ở trên.

Nguyễn Thị G khai: G thường xuyên đến sống cùng Phạm Văn H2 ở tại phòng A tòa B, chung cư R, tại phường P, quận L, thành phố Hà Nội. G biết H2 sử dụng ma túy. Ngày 19/12/2022, trước khi đi làm, G nhìn thấy số ma túy H2 cất giấu trong ngăn kéo tủ, bàn phấn và trên bàn máy vi tính. Do trước đây đã sử dụng ma túy nên G biết số ma túy H2 cất giữ là ma túy “kẹo”, “ketamine” và cần sa. Tối ngày 19/12/2022, G về phòng, thấy mọi người đang sử dụng ma túy nên vào phòng ngủ cùng sử dụng. G không biết nguồn gốc ma túy của H2 cũng như việc H2 tổ chức sử dụng ma túy tại phòng 1109 tòa B, chung cư R, tại phường P, quận L, thành phố Hà Nội.

Căn cứ lời khai của Phạm Văn H2, ngày 20/12/2022, Cơ quan điều tra đã bắt giữ và thi hành lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Tuấn P, trú tại tổ B, phường L, quận L, thành phố Hà Nội, kết quả thu giữ vật chứng và Kết luận giám định như sau:

* Trong tủ đầu giường thu giữ:

- 12 túi nylon màu xanh bên trong đều chứa chất bột màu vàng.

- 14 túi nylon màu xanh bên trong đều chứa chất bột màu đỏ.

- 30 túi nylon màu nâu bên trong đều chứa chất bột màu nâu.

- 45 túi nylon màu cam bên trong đều chứa chất bột màu vàng.

- 01 túi nylon bên trong chứa các viên nén màu nâu.

- 02 túi nylon bên trong đều chứa tinh thể màu trắng.

- 01 túi nylon bên trong chứa tinh thể màu trắng.

- 01 túi nylon bên trong chứa các viên nén màu vàng.

- 01 cân điện tử màu trắng.

Kết luận giám định: - Các viên nén màu đen bên trong 01 túi nylon đều là ma tuý loại MDMA, tổng khối lượng 79,421 gam.

- Tinh thể màu trắng bên trong 02 túi nylon đều là ma tuý loại Ketamine, tổng khối lượng 113,056 gam.

- Các viên nén màu vàng bên trong 01 túi nylon đều là ma tuý loại MDMA, tổng khối lượng 13,222 gam.

- Chất bột màu vàng bên trong 12 túi nylon màu xanh đều có ma tuý loại MDMA, ma tuý loại Ketamine và N, tổng khối lượng 26,013 gam. Giám định bổ sung hàm lượng ma túy thu giữ kết luận trong 18,914 gam mẫu có 3,682 gam MDMA và 1,028 gam Ketamine. Chất Nimetazepam chưa có mẫu chuẩn nên không xác định được khối lượng. Tương đương trong 26,013 gam có 5,063 gam MDMA, 1,413 gam Ketamine và 19, 537 gam còn lại tính sang ma túy thể rắn.

- Chất bột màu đỏ bên trong 14 túi nylon màu xanh đều có ma tuý loại Methamphetamine, ma tuý loại MDMA và Nimetazepam, tổng khối lượng 30,227 gam. Giám định bổ sung hàm lượng ma túy thu giữ kết luận trong 26,051 gam mẫu có 0,33 gam Methamphetamine và 3,881 gam MDMA. Chất Nimetazepam chưa có mẫu chuẩn nên không xác định được khối lượng. Tương đương trong 30,227 gam có 4,502 gam MDMA; 0,382 gam Methamphetamine và 25,343 gam còn lại tính sang ma túy thể rắn.

- Chất bột màu nâu bên trong 30 túi nylon màu nâu đều có ma tuý loại Heroine, ma tuý loại MDMA, ma tuý loại Ketamine và N, tổng khối lượng 105,218 gam. Giám định bổ sung hàm lượng ma túy thu giữ kết luận trong 97,683 gam mẫu có 14,066 gam MDMA và 2,989 gam Ketamine, 0,058 gam heroin. Chất Nimetazepam chưa có mẫu chuẩn nên không xác định được khối lượng. Tương đương trong 105,218 gam có 15,150 gam MDMA; 0,088 gam Heroin và 3,218 gam Ketamine, còn lại 100,762 gam tính sang ma túy thể rắn.

- Chất bột màu vàng bên trong 45 túi nylon màu cam đều có ma tuý loại Methamphetamine, ma tuý loại MDMA và Nimetazepam, tổng khối lượng 54,274 gam. Giám định bổ sung hàm lượng ma túy thu giữ kết luận trong 49,176 gam mẫu có 2,035 gam Methamphetamine và 24,032 gam MDMA. Chất Nimetazepam chưa có mẫu chuẩn nên không xác định được khối lượng. Tương đương trong 54,274 gam có 26,531 gam MDMA; 2,267 gam methamphetamine; còn lại 25,476 gam tính sang ma túy thể rắn.

- Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nylon không tìm thấy chất ma tuý, khối lượng 43,276 gam.

- 01 cân điện tử màu trắng có dính ma tuý loại Ketamine.

* Tại kệ túi xách trong phòng phía trước tầng 3 có 01 túi xách màu đen kích thước 20x25cm, bên trong có:

- 01 túi nylon bên trong chứa các viên nén màu nâu.

- 01 túi nylon bên trong chứa các viên nén màu tím.

- 01 túi nylon bên trong đựng 27 túi nylon bên trong đều chứa tinh thể màu trắng.

- 01 túi nylon bên trong đựng 45 túi nylon bên trong đều chứa tinh thể màu trắng.

- 03 túi nylon màu vàng bên trong đều chứa chất bột màu vàng.

- 04 túi nylon màu nâu bên trong đều chứa chất bột màu nâu.

- 01 túi nylon màu cam bên trong chứa chất bột màu vàng.

Kết luận giám định: - Các viên nén màu nâu bên trong 01 túi nylon đều là ma tuý loại MDMA, tổng khối lượng 66,094 gam.

- Các viên nén màu tím bên trong 01 túi nylon đều là ma tuý loại MDMA, tổng khối lượng 9,726 gam.

- Tinh thể màu trắng bên trong 27 túi nylon (để bên trong 02 túi nylon) đều là ma tuý loại Ketamine, tổng khối lượng 71,261 gam.

- Tinh thể màu trắng bên trong 45 túi nylon (để bên trong 02 túi nylon) đều là ma tuý loại Ketamine, tổng khối lượng 84,404 gam.

- Chất bột màu vàng bên trong 03 túi nylon màu xanh đều có ma tuý loại MDMA, ma tuý loại Ketamine và N, tổng khối lượng 5,417 gam. Giám định bổ sung hàm lượng ma túy thu giữ kết luận trong 3,41 gam mẫu có 0,809 gam MDMA và 0,135 gam Ketamine. Chất Nimetazepam chưa có mẫu chuẩn nên không xác định được khối lượng. Tương đương trong 5,417 gam có 1,284 gam MDMA; và 0,214 gam Ketamine, còn lại 3,919 gam tính sang ma túy thể rắn.

- Chất bột màu nâu bên trong 04 túi nylon màu nâu đều có ma tuý loại Heroine, ma tuý loại MDMA, ma tuý loại Ketamine và N, tổng khối lượng 11,471 gam. Giám định bổ sung hàm lượng ma túy thu giữ kết luận trong 9,378 gam mẫu có 1,419 gam MDMA và 0,188 gam Ketmine, 0,004 gam Heroin. Chất Nimetazepam chưa có mẫu chuẩn nên không xác định được khối lượng. Tương đương trong 11,471 gam có 1,735 gam MDMA; 0,004 gam Heroin và 0,229 gam Ketamine, còn lại 9,503 gam tính sang ma túy thể rắn.

- Chất bột màu vàng bên trong 01 túi nylon màu cam có ma tuý loại Methamphetamine, ma tuý loại MDMA và Nimetazepam, khối lượng 1,056 gam. Giám định bổ sung hàm lượng ma túy thu giữ kết luận trong 0,706 gam mẫu có 0,029 gam Methamphetamine và 0,357 gam MDMA. Chất Nimetazepam chưa có mẫu chuẩn nên không xác định được khối lượng. Tương đương trong 1,056 gam có 0,533 gam MDMA; 0,043 gam Methamphetamine, còn lại 0,48 gam tính sang ma túy thể rắn.

Ngoài ra, Cơ quan điều tra thu giữ của Nguyễn Tuấn P:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 màu trắng, lắp sim số 0522175440;

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax màu đen, lắp sim số 0399771990.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Tuấn P khai: Qua bạn xã hội, Nguyễn Tuấn P quen đối tượng bán ma tuý tên H3 (nữ giới, ở thành phố Hồ Chí Minh), số điện thoại 0981568868. P sử dụng Telegram để trao đổi, mua bán ma tuý với H3, thỏa thuận giá 60.000.000 đồng/100 gam Ketamine; 150.000 đồng - 170.000 đồng/01 viên thuốc lắc; 1.900.000 đồng/01 túi “nước vui”. Sau đó, H3 chuyển ma tuý cho P bằng nhiều phương thức khác nhau như chuyển phát nhanh; giao trực tiếp cho P hoặc đặt ma tuý gần nhà P để P tự ra lấy. Trong thời gian từ 21/11/2022 đến 16/12/2022, Nguyễn Tuấn P đã sử dụng tài khoản 1903538009X của ngân hàng T6 (T7) chuyển vào tài khoản số 0777731X của H3 mở tại Ngân hàng T8 (M1), tổng số 14 lần = 597.000.000 đồng (năm trăm chín mươi bảy triệu đồng) để thanh toán tiền mua ma túy. Số ma túy mua được, P cất giấu trong nhà tại tổ B, phường L, quận L, thành phố Hà Nội, bán lại kiếm lời với giá 80.000.000 đồng/100 gam Ketamine; 220.000 đồng - 250.000 đồng/01 viên thuốc lắc; 2.500.000 đồng/01 túi “nước vui”. Sau khi thống nhất giá cả, địa điểm giao nhận ma túy, Nguyễn Tuấn P đóng gói ma túy vào hộp hoặc bọc giấy quấn băng dính theo đơn hàng khách đặt rồi thuê taxi do Thẩm Đức S lái, đi giao cho khách. Hai bên tính tiền cước vận chuyển 300.000 đồng đến 500.000 đồng tùy quãng đường. Khách mua ma túy của P gồm nhiều đối tượng khác nhau, chủ yếu liên lạc qua telegram, trong đó có một đối tượng tên V ở tòa S208 chung cư O và Phạm Văn H2 mua “nước vui” để sử dụng.

Bản án hình sự sơ thẩm số 539/2023/HS-ST ngày 14 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn P phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy. Bị cáo Nguyễn Thị G phạm tội Không tố giác tội phạm.

Căn cứ điểm h khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 39 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Tuấn P: tù chung thân, thời hạn tù tính từ ngày 20/12/2022.

Căn cứ khoản 1 Điều 390; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Thị G: 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/01/2023 đến ngày 05/7/2023 vào thời hạn chấp hành hình phạt tù.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về hình phạt đối với bị cáo khác, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định.

Ngày 20/11/2023 bị cáo Nguyễn Tuấn P có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 17/11/2023 bị cáo Nguyễn Thị G có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được cải tạo ở địa phương.

* Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản án sơ thẩm đã quy kết.

Bị cáo Nguyễn Tuấn P xin giảm nhẹ hình phạt tù vì lý do lần đầu phạm tội, hoàn cảnh gia đình khó khăn, hai con còn nhỏ, bố mẹ đẻ tuổi đã cao, sức khỏe yếu.

Bị cáo Nguyễn Thị G đề nghị xem xét về hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố đã mất, nhà có ba chị em, hai chị gái đã đi lấy chồng, bị cáo hiện đang ở với mẹ, tại cơ quan điều tra đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, bị cáo phạm tội do không hiểu biết pháp luật.

- Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham dự phiên tòa: Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay thấy Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo Nguyễn Tuấn P là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không nặng như bị cáo trình bày. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm đối với bị cáo Nguyễn Tuấn P.

Đối với bị cáo Nguyễn Thị G lần đầu phạm tội, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình khai báo thành khẩn, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Đề nghị HĐXX cho bị cáo được hưởng án treo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Tuấn P có ý kiến tranh luận như sau: Thưa tòa, bị cáo P không nhận thức được đúng tính nguy hiểm cho xã hội từ hành vi phạm tội của mình; bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tham gia quân ngũ; chưa tiền án, tiền sự. Do vậy, đề nghị HĐXX giảm hình phạt cho bị cáo.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Cơ quan điều tra Công an thành phố H, điều tra viên và Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, kiểm sát viên, thẩm phán và thư ký trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Về đơn kháng cáo của các bị cáo đúng trình tự, thủ tục do đó được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

Xét kháng cáo của các bị cáo HĐXX thấy như sau:

Đối với bị cáo Nguyễn Tuấn P: Trong thời gian từ 21/11/2022 đến 16/12/2022, Nguyễn Tuấn P đã sử dụng tài khoản 1903538009X của ngân hàng T6 (T7) chuyển vào tài khoản số 0777731X của H3 mở tại Ngân hàng T8 (M1), tổng số 14 lần = 597.000.000 đồng (năm trăm chín mươi bảy triệu đồng) để thanh toán tiền mua ma túy. Số ma túy mua được, P cất giấu trong nhà tại tổ B, phường L, quận L, thành phố Hà Nội, bán lại kiếm lời với giá 80.000.000 đồng/100 gam Ketamine; 220.000 đồng – 250.000 đồng/01 viên thuốc lắc; 2.500.000 đồng/01 túi “nước vui”. Như vậy hành vi của bị cáo Nguyễn Tuấn P đã phạm vào tội Mua bán trái phép chất ma túy. Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng. Trước khi quyết định hình phạt đối với bị cáo Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm cũng đã xem xét đến các tình tiết như bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu; thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; có ông nội và bác ruột là người có công với cách mạng để áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử tù chung thân đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội; tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo cũng không xuất trình được những tình tiết gì mới để làm căn cứ xem xét giảm nhẹ cho bị cáo được.

Đối với Nguyễn Thị G: Bị cáo biết Phạm Văn H2 tàng trữ trái phép 0,217g MDMA và 3,94g Ketamine nhưng bị cáo không đi tố cáo. Như vậy hành vi của Nguyễn Thị G đã phạm vào tội “Không tố giác tội phạm” như tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết và quyết định về tội danh là đúng. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu; thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải để áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là đúng, nhưng cũng với những tình tiết nêu trên tòa án cấp sơ thẩm áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo là chưa chính xác, mà cần phải xác định hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Thị G thuộc trường hợp phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng do đó cần phải áp dụng điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo, do đó HĐXX phúc thẩm sẽ không áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự thay vào đó áp dụng điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự . Mặc dù hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Thị G thuộc trường hợp phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nhưng cũng đã xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc phát hiện, điều tra xử lý tội phạm và người phạm tội, do đó cần có hình phạt tù giam đối với bị cáo. Tuy nhiên do HĐXX đã áp dụng thêm điểm i, khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự do đó có căn cứ giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

Từ những phân tích nêu trên HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Tuấn P, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị G.

Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Nguyễn Tuấn P phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo Nguyễn Thị G không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 355, Điều 356, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Không chấp nhận nội dung đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Tuấn P.

Giữ nguyên quyết định tại Bản án hình sự sơ thẩm số 539/2023/HS-ST ngày 14 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đối với bị cáo Nguyễn Tuấn P.

Chấp nhận một phần nội dung đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị G sửa một phần quyết định tại Bản án hình sự sơ thẩm số 539/2023/HS-ST ngày 14 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đối với bị cáo Nguyễn Thị G.

2. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tuấn P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo Nguyễn Thị G phạm tội “Không tố giác tội phạm”.

Căn cứ điểm h khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 39 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Nguyễn Tuấn P: tù chung thân, thời hạn tù tính từ ngày 20/12/2022.

Căn cứ khoản 1 Điều 390; điểm i, s khoản 1, Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Nguyễn Thị G: 07 (bẩy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/01/2023 đến ngày 05/7/2023 vào thời hạn chấp hành hình phạt tù.

2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Tuấn P phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Bị cáo Nguyễn Thị G không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 145/2024/HS-PT về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:145/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;