Bản án 145/2020/HS-ST ngày 26/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 145/2020/HS-ST NGÀY 26/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 129/2020/TLST-HS ngày 02 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 151/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Phan Xuân T (tên gọi khác: CN), sinh năm 1982. Tại Kon Tum. Nơi đăng ký thường trú: Ấp 3, xã TH, huyện LT, tỉnh Đồng Nai. Nơi cư trú: Ấp 2, xã TH, huyện LT, tỉnh Đồng Nai.

Nghề nghiệp: Sửa xe; Trình độ văn hóa: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phan Xuân H, sinh năm 1949 (đã chết) và bà Phan Thị H, sinh năm 1949; Gia đình bị cáo có 04 anh em, bị cáo là con lớn nhất trong gia đình, vợ: Nguyễn Thị C, sinh năm 1990, có 03 con (lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2011);

Tiền án: Không; Tiền sự:

+ Ngày 05/3/2020 bị Công an xã TH, huyện LT, tỉnh Đồng Nai xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc” số tiền 1.500.000 đồng (Quyết định số 03/QĐ-XPHC ngày 05/3/2020).

+ Ngày 17/3/2020 bị Ủy ban nhân dân xã TH, huyện LT, tỉnh Đồng Nai áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (Quyết định số 36/QĐ-UBND ngày 17/3/2020).

Bị cáo tại ngoại (có mặt).

- Người làm chứng: Anh Bùi Đức T1, sinh năm 1982.

Địa chỉ: Ấp 3, xã PT, huyện LT, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phan Xuân T là người nghiện ma túy tổng hợp. Vào tối ngày 15/4/2020, T điều khiển xe mô tô biển số 68N1-027.70 đến khu vực giáp ranh giữa xã Tân Hiệp và xã Phước Thái gặp một người đàn ông tên Q (không rõ nhân thân, lai lịch) mua 01 gói ma túy với giá 500.000 đồng, T chia làm 02 gói, 01 gói giấu vào trong mũ đội trên đầu và 01 gói giấu vào lai quần bên trái. Đến 21 giờ 40 phút cùng ngày, khi T điều khiển xe mô tô biển số 68N1-027.70 đến ấp 1C, xã Phước Thái thì bị Công an xã Phước Thái phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng.

Ngày 16/4/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành, đã trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai giám định vật chứng thu giữ. Tại Kết luận giám định số 746/KLGĐ-PC09 ngày 22/4/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 1,6638 gam, loại Methamphetamine.

Về vật chứng và tài sản tạm giữ gồm: 01 gói niêm phong chứa ma túy được hoàn lại sau khi giám định số 746/KLGĐ-PC09 ngày 22/4/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; 01 xe mô tô biển số 68N1-027.70 có số máy: 152FMH512027, số khung: CH3L1AA512027; 01 điện thoại di động hiệu Nokia có gắn sim số thuê bao 0908.378.128; 01 cái mũ bằng vải có ghi chữ PUMA.

Tại Cáo trạng số 143/CT-VKSLT ngày 01 tháng 7 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố bị cáo Phan Xuân T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Phan Xuân T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Phan Xuân T mức án từ 18 tháng đến 20 tháng tù giam.

Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong chứa ma túy được hoàn lại sau khi giám định số 746/KLGĐ-PC09 ngày 22/4/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia có gắn sim số thuê bao 0908.378.128 là công cụ bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.

Đối với 01 cái mũ bằng vải có ghi chữ PUMA là tài sản của Phan Xuân T không liên quan đến vụ án, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long thành đã trả lại cho bị cáo.

Đối với 01 xe mô tô biển số 68N1-027.70 có số máy: 152FMHS12027, số khung: CH3L1AA512027 chưa xác minh được chủ sở hữu nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành tiếp tục điều tra xử lý sau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đều hợp pháp, đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai người làm chứng và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa, bị cáo Phan Xuân T khai nhận: Vào lúc 21 giờ 40 phút, ngày 15/4/2020, tại ấp 1C, xã PT, huyện LT, tỉnh Đồng Nai, Phan Xuân T có hành vi tàng trữ 02 gói ma túy có khối lượng 1,6638 gam, loại Methamphetamine để sử dụng thì bị bắt quả tang. Đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Phan Xuân T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) như Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm vào chế độ quản lý, sử dụng các chất gây nghiện do Nhà nước độc quyền quản lý, làm mất an ninh, trật tự tại địa phương, là một trong những nguyên nhân của các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Bị cáo là người nghiện ma túy nên nhận thức rõ được tác hại của ma túy mang lại nhưng vẫn cố ý tàng trữ để sử dụng. Do đó, phải tuyên xử bị cáo một mức án tương xứng mức độ phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng có nhân thân xấu, 01 lần bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và 01 lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc.

Tuy nhiên trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

Cần tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong chứa ma túy được hoàn lại sau khi giám định số 746/KLGĐ-PC09 ngày 22/4/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

Cần tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia có gắn sim số thuê bao 0908.378.128 là công cụ bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.

[6] Đối với người đàn ông tên Quân có hành vi bán ma túy cho T nhưng hiện không rõ nhân thân lai lịch, Cơ quan điều tra Công an huyện Long Thành tiếp tục điều tra xử lý sau.

Đối với 01 xe mô tô biển số 68N1-027.70 có số máy: 152FMHS12027, số khung: CH3L1AA512027 chưa xác minh được chủ sở hữu nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành tiếp tục điều tra xử lý sau.

Đối với 01 cái mũ bằng vải có ghi chữ PUMA là tài sản của bị cáo không liên quan đến vụ án, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long thành đã trả lại cho T là có căn cứ.

[7] Về án phí: Bị cáo Phan Xuân T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố bị cáo Phan Xuân T (tên gọi khác: CN) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Phan Xuân T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong chứa ma túy được hoàn lại sau khi giám định số 746/KLGĐ-PC09 ngày 22/4/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia có gắn sim số thuê bao 0908.378.128 là công cụ bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.

Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài liệu ngày 01/7/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Phan Xuân T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Phan Xuân T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 145/2020/HS-ST ngày 26/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:145/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;