Bản án 145/2020/HS-ST ngày 23/07/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

 BẢN ÁN 145/2020/HS-ST NGÀY 23/07/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 7 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 159/2020/TLST-HS ngày 30 tháng 6 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 170/2020/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 7 năm 2020, đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Quốc V, sinh năm 1976 tại Bà Rịa - Vũng; Hộ khẩu thường trú: 1200/3/8 đường A, Phường B, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Chỗ ở: Không nơi cư trú nhất định; Nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: Thiên Chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Nguyễn Đình S (đã chết); Mẹ: Nguyễn Thị Kh, sinh năm: 1946; Vợ: Trần Thị L, sinh năm 1972; Có 01 người con sinh năm 2004; Tiền sự: không;

Tiền án:

Bản án số 48/HSST ngày 24-7-1995 của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

Bản án số 124/HSST ngày 01-9-1998 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xử phạt 05 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

Bản án số 106/HSST ngày 20-9-2004 của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

Bản án số 260/2009/HS-ST ngày 05-11-2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xử phạt 05 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

Bản án số 148/2012/HSST ngày 10-8-2012 của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

Bản án số 74/2016/HS-ST ngày 26-9-2016 của Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 31-3-2019.

Bị bắt ngày 01-11-2019, hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có mặt tại phiên tòa);

2. Mạnh Minh L, sinh năm 1970 tại Bà Rịa - Vũng Tàu; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: 1242A đường A, Phường B, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Mạnh Minh Tân (đã chết); Mẹ: Đào Thị Nam V (đã chết); Vợ: Nguyễn Thị Tuyết M, sinh năm 1985; Con: có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2004, nhỏ nhất sinh năm 2009; Tiền sự: Không.

Tiền án: Bản án số 132/HSST ngày 20-9-1997 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tuyên phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Bị bắt ngày 01-11-2019, hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có mặt tại phiên tòa);

3. Phạm Thành L, sinh năm 1972 tại Bà Rịa - Vũng Tàu; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: 1230 đường A, phường B, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Phạm Văn Nh, sinh năm 1945; Mẹ: Huỳnh Thị K (đã chết); Vợ: Phạm Thị H, sinh năm 1990; Con: Có 02 người con, lớn nhất sinh năm 1997, nhỏ nhất sinh năm 2013; Tiền sự: Không;

Tiền án: Năm 1995 bị Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị bắt ngày 01-11-2019, hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có mặt tại phiên tòa).

Bị hại: Anh Nguyễn Đình Ph, sinh năm 1981; Nơi cư trú: 514/15/11F đường A, phường B, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ( có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Lê Ngọc Q, sinh năm 1979; Nơi cư trú: 1216/71 đường A, phường B, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 02 giờ ngày 01-11-2019, V chuẩn bị và sử dụng xe mô tô biển số 72N2-6596, phía sau xe có gắn thêm 01 thùng kéo và 01 cái kìm cộng lực đi trên đường A, thành phố Vũng Tàu tìm tài sản để trộm. Khi đi ngang qua tiệm cơ khí tại số 1541 đường A, Phường B, thành phố Vũng Tàu của anh Nguyễn Đình Ph, Việt phát hiện trước cửa tiệm có một số cửa bằng sắt cũ đang để ở đấy và không có người trông coi, V liền nảy sinh ý định chiếm đoạt số tài sản trên. Do số cửa sắt trên nặng và đã được khóa xích lại nên V chạy đến nhà L để rủ L cùng đi trộm cắp. L đồng ý và rủ thêm L cùng đi. V dùng xe gắn máy trên chở L và L cùng đi đến địa chỉ nêu trên để lấy trộm tài sản. Đến nơi, V đứng bên ngoài, còn L và L đi đến trước cửa tiệm cơ khí, L dùng kiềm cắt dây xích khóa những cánh cửa sắt và cùng L khênh từng cánh cửa sắt ra xe V chờ sẵn, có những cánh cửa sắt nặng thì L kêu cả V vào cùng khênh và cả 03 cùng nhau vận chuyển những cánh cửa sắt (chia làm 4 - 5 chuyến) đến tiệm ve chai tại số 1216/71 đường A, phường B, thành phố Vũng Tàu do Lê Ngọc Q, sinh năm 1979 làm chủ tiệm để bán. Tại đây, V, L và L đã ngồi phía trước cửa chờ đến khoảng 06 giờ cùng ngày thì anh Q mở cửa tiệm. Khi anh Q mở cửa tiệm ra, nhóm của V nói với anh Q bán số của sắt trên và anh Q đồng ý thu mua với giá 4.800 đồng/kg. Anh Q tiến hành cân đóng cửa sắt trên được khối lượng là 559 kg và đưa cho nhóm của V 2.750.000 đồng. Theo anh Q, tổng số tiền phải trả theo thỏa thuận cho nhóm của V chỉ 2.683.200 đồng nhưng nhóm của V xin thêm tiền xăng nên anh Q đưa thêm. Sau khi có tiền, V chia cho L và L mỗi người 800.000 đồng, số tiền dư ra cả nhóm đi mua đồ ăn, thức uống về dùng chung. Đến chiều cùng ngày, cơ quan công an đã phát hiện được hành vi trộm cắp của các đối tượng và thu giữ toàn bộ tang vật và phương tiện phạm tội. Tại cơ quan điều tra, các đối tượng V, L và L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Vật chứng thu giữ trong vụ án bao gồm:

- 01 xe mô tô gắn biển số 72N2-6596 nhãn hiệu Trung Quốc, kiểu dáng như xe Honda Dream, màu nâu, số máy VHSGI50FM00000563, phía sau có gắn 01 thùng xe 2 bánh. Qua xác minh, xe mô tô trên gắn biển số giả; 01 cây kìm dài khoảng 0,8 - 01m, thân tay cây kìm màu vàng, tay cầm được bọc nhựa màu đen, 01 đoạn dây xích dài 1,5m. Tất cả các vật chứng đã chuyển cơ quan Thi hành án hình sự quản lý.

- Số cửa sắt bị chiếm đoạt thu giữ tại tiệm ve chai của anh Ph, Cơ quan CSĐT công an thành phố Vũng Tàu đã ra quyết định xử lý vật chứng số 92/QĐ ngày 30-12-2019 trả lại toàn bộ số tài sản trên cho anh P.

Căn cứ bản kết luận định giá tài sản số 169/KL-HĐĐG-TTHS ngày 22- 11-2019 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự thành phố Vũng Tàu kết luận giá trị tài sản tại thời điểm bị chiếm đoạt là: 559kg x 6.000đ = 3.354.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự trong vụ án: anh Nguyễn Đình Ph sau khi nhận lại tài sản không có yêu cầu gì. Anh Lê Ngọc Q không có yêu cầu gì.

Bản cáo trạng số 50/CT-VKS ngày 25-02-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu truy tố bị cáo Nguyễn Quốc V về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự; truy tố các bị cáo Mạnh Minh L và Phạm Thành L về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, không tranh luận và xin giảm nhẹ hình phạt.

- Bị hại anh Nguyễn Đình Ph không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường gì thêm và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa và không có yêu cầu gì.

- Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Nguyễn Quốc V, Mạnh Minh L và Phạm Thành L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Căn cứ điểm b, g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo V từ 30 tháng đến 36 tháng tù;

+ Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Mạnh Minh L và Phạm Thành L , mỗi bị cáo từ 10 đến tháng đến 12 tháng tù;

Về vật chứng: Đề nghị tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 xe gắn máy có gắn thùng xe hai bánh, tịch thu tiêu hủy 1 cái kìm sắt và trả lại anh Nguyễn Đình Ph 01 sợi dây xích.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của các bị cáo: Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của các bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng và lời khai của bị hại, của người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên có cơ sở xác định:

Khoảng 02 giờ 00 ngày 01-11-2019 tại tiệm cơ khí của anh Nguyễn Đình Ph số 1541 Mạnh Minh L và Phạm Thành L, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, các bị cáo Nguyễn Quốc V, Mạnh Minh L và Phạm Thành L đã có hành vi lén lút chiếm đoạt của anh Nguyễn Đình Ph một số cửa sắt đã cũ có khối lượng 559 kg trị giá 3.354.000 đồng. Do đó, có đủ căn cứ kết luận hành vi của các bị cáo V, L và L phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Hành vi phạm tội của bị cáo Mạnh Minh L và Phạm Thành L được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự;

Đối với bị cáo V, bị Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 74/2016/HS-ST ngày 26-9-2016, chấp hành xong hình phạt tù ngày 31-3-2019, chưa được xóa án tích đến ngày 01-11-2019 lại tiếp tục phạm tội do lỗi cố ý nên thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” là tình tiết định khung tăng nặng theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự; bị cáo có 06 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, nay lại phạm tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính, vì vậy nên thuộc trường hợp “Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” theo điểm b khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[3] Xét hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo đều là đối tượng nghiện ma túy, để có tiền sử dụng ma túy, các bị cáo đã bất chấp pháp luật trộm cắp tài sản hợp pháp của người khác. Mặc dù các bị cáo đã từng bị kết án về cùng hành vi này, nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục vi phạm, cho thấy xem thường pháp luật. Do đó, cần phải xử phạt nghiêm để giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung. Trong vụ án này, các bị cáo phạm tội có tính chất đồng phạm nhưng giản đơn; bị cáo V tái phạm nguy hiểm, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp và là người rủ rê các bị cáo còn lại nên phải chịu trách nhiệm chính trong vụ án, các bị cáo L, L khi được Việt rủ cũng tích cực tham gia nên phải chịu trách nhiệm với vai trò của mình.

[4] Tình tiết tăng năng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo V không có tình tiết tăng nặng. Bị cáo Mạnh Minh L và Phạm Thành L có tiền án, chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này thuộc trường hợp “Tái phạm” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiện toà, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[5] Xử lý vật chứng:

- 01 xe mô tô số máy VHSGI50FM00000563 có gắn thùng xe 2 bánh phía sau do các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước;

- 01 biển số giả 72N2-6596, 01 cái kìm sắt không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 sợi dây xích sắt là tài sản của anh Nguyễn Đình Ph nên trả lại cho anh Phong.

[6] Trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Nguyễn Đình Ph và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lê Ngọc Q không có yêu cầu bị cáo bồi thường gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với các bị cáo về phần tội danh, điều luật và mức hình phạt áp dụng là có căn cứ phù hợp với các tình tiết của vụ án nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Quốc V, Mạnh Minh L và Phạm Thành L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ điểm b, g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Quốc V: 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 01-11-2019;

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự:

+ Xử phạt Mạnh Minh L: 10 (mười) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 01- 11-2019;

+ Xử phạt Phạm Thành L: 10 (mười) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 01-11-2019;

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 xe mô tô số máy VHSGI50FM00000563 có gắn thùng xe 2 bánh phía sau;

- Tịch thu tiêu hủy 01 biển số giả 72N2-6596, 01 cái kìm sắt;

- Trả lại anh Nguyễn Đình Ph 01 sợi dây xích sắt.

Vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng số 69/BB.THA ngày 27-02-2020.

3. Trách nhiệm dân sự: Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu nên không xem xét.

4. Án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 về án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Quốc V, Mạnh Minh L, Phạm Thành L, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đ (hai trăm ngàn đông) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 145/2020/HS-ST ngày 23/07/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:145/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;