Bản án 145/2020/HS-ST ngày 05/06/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 145/2020/HS-ST NGÀY 05/06/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 5 tháng 6 năm 2020 tại trụ sở, Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 107/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 149/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

1.Nguyễn Thanh T, sinh năm: 1978. Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú : 105/262 T,quận L, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; văn hóa: 12/12; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh T ( sinh năm 1949) và bà Nguyễn Thị N ( đã mất); có vợ là Lê Thị Minh L, sinh năm 1986; có 01 con sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: 05 tiền án:

- Bản án số 29/HSST ngày 15/3/2000, Tòa án nhân dân quận L xử phạt 06 tháng tù giam về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân và 12 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản. Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội là 18 tháng tù. Ra trại ngày 26/6/2001. Thi hành xong khoản án phí theo biên lai số 20544 ngày 14/12/2000 ( đã xóa) - Bản án số 74/HSST ngày 27/5/2003 Tòa án nhân dân quận L,thành phố H xử phạt 24 tháng tù giam về tội Cướp giật tài sản. Ra trại ngày 09/2/2005. Thi hành xong khoản án phí ( đã xóa) - Bản án số 194 ngày 24/8/2005, Tòa án nhân dân quận L, thành phố H xử phạt 42 tháng tù giam về tội Cướp giật tài sản. Ra trại ngày 01/4/2008. Thi hành xong khoản án phí theo biên lai số 12388 ngày 9/3/2009 (đã xóa) -Bản án số 362/HSST ngày 25/10/2013 Tòa án nhân dân huyện T, thành phố Hà Nội xử phạt 30 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản. Ra trại ngày 28/1/2016. Thi hành xong khoản án phí (chưa xóa) -Bản án số 112/HSST ngày 4/8/2017, Tòa án nhân dân quận L, thành phố H xử phạt 24 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản. Ra trại ngày 11/3/2019. Thi hành xong khoản án phí theo biên lai số 2465 ngày 18/9/2017 ( chưa xóa) Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1- Công an TP Hà Nội; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Ánh D. Sinh năm 1980; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: 10/62 D, quận L, thành phố H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; văn hóa: 12/12: tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T ( sinh năm 1943) và bà Nguyễn Thị N (sinh năm 1947); có vợ là Nguyễn Thị Mai H; có 01 con sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: 02 tiền án:

- Bản án số 55/HSST ngày 5/3/1999, Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 05 năm tù về tội Cướp tài sản của công dân. Ra trại ngày 2/9/2000. Thi hành xong khoản án phí theo biên lai số 20577 ngày 7/12/2000 ( đã xóa).

- Bản án số 113/HSST ngày 15/6/2006, Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 04 năm tù về tội Gây rối trật tự công cộng. Bản án số 1071/HSPT ngày 4/10/2006, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội y án sơ thẩm. Ra trại ngày 20/8/2008. Thi hành xong khoản án phí theo biên lai số 732 ngày 18/11/2010 ( đã xóa).

Ngày 7/1/2020 đã áp dụng hủy bỏ Quyết định tạm giữ đối với bị can. Hiện bị cáo đang tại ngoại- Có mặt tại phiên tòa

*Nguyên đơn dân sự: - Công ty Cổ phần Thương mại Công nghệ K; địa chỉ tai 173 T, phường T, quận T, thành phố Hồ Chí Minh; Người đại diện theo pháp luật: Bà Trần Thị T-giám đốc; Người đại diện theo ủy quyền: ông Đỗ Bảo T; chức vụ: Giám đốc điều hành chi nhánh miền Bắc của Công ty Cổ phần thương mại Công nghệ K( vắng mặt) và ông Cao Quốc N; chức vụ Đội trưởng bãi xe A- có mặt tại phiên tòa - Công ty TNHH Thương mại tổng hợp T: Địa chỉ tại số nhà 34B, đường P, Phường C, quận B, thành phố Hà Nội; Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn T; chức vụ: Giám đốc; Người đại điện theo ủy quyền: Ông Phan Văn S; chức vụ: quản lý ca ( vắng mặt tại phiên tòa)

*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Chị Nguyễn Thị Kiều D ( Sinh năm 1998, HKTT tại Đ, xã Đ, huyện G, thành phố Hà Nội)- vắng mặt tại phiên tòa

- Chị Trần Quỳnh T ( sinh năm 1997, HKTT tại số 12 ngõ 321/21 P, quận L, thành phố Hà Nội)- vắng mặt tại phiên tòa

- Anh Bùi Tuấn M ( sinh năm 1988, trú tại P708 nhà c2 N, phường C, quận N, thành phố Hà Nội )- vắng mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do là bạn bè xã hội và cần tiền ăn tiêu cá nhân nên Nguyễn Thanh T và Nguyễn Ánh D đã bàn bạc với nhau đi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác bằng hình thức sử dụng chiếc xe máy có giá trị thấp mang đến bãi gửi xe và tráo lấy chiếc xe máy có giá trị cao hơn. Bằng thủ đoạn trên, T và D đã thực hiện hành vi phạm tội như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 08 giờ ngày 20/12/2019, Nguyễn Thanh T điều khiển xe máy Suzuki Smart Revollo màu đen, BKS: 34B2-709.26 và Nguyễn Ánh D điều khiển xe máy Honda Wave RS màu đỏ,BKS 17B6-076.95 đi từ H đến Trung tâm Thương mại A, thành phố Hà Nội. Đến khoảng 12h15’cùng ngày, T và D có mặt tại bãi gửi xe của Trung tâm thương mại A, khi qua cửa soát vé, T và D có lấy vé từ, T điều khiển xe dựng bên cạnh chiếc xe SH 150 màu đỏ, BKS: 29N1-068.96 của chị Nguyễn Thị Kiều D ( sinh năm 1998, HKTT tại Đ, xã Đ, huyện G, thành phố Hà Nội) còn D dựng bên cạnh chiếc xe SH mode, màu nâu vàng, BKS 29P1-568.13 của chị Trần Quỳnh T ( sinh năm 1997, HKTT tại số 12 ngõ 321/21 P, quận L, thành phố Hà Nội). Khi quan sát không thấy có người nên T ngồi lên yên chiếc xe SH 150, màu đỏ, BKS 29N1-068.96 rồi dùng vam phá khóa điện của chiếc xe, sau khi phá khóa điện xong T bóc biển số xe máy của Tùng là 34B2-709.26 dán đè lên biển số 29N1-068.96 của chiếc xe SH 150 rồi để xe ở đó và đi lại chỗ D đang đứng. T ngồi lên yên xe SH mode, BKS 29P1-568.13 tiếp tục dùng vam phá ổ khóa điện của chiếc xe SH mode, còn D đứng cảnh giới phía sau cho T thực hiện bóc biển số xe 17B6-076.95 dán đè lên biển số 29P1-568.13 của chiếc xe SH mode. Sau khi phá khóa và dán đè biển số của hai chiếc xe máy trên, T điều khiển xe SH 150, dán BKS 34B2-709.26 đi trước, còn D điều khiển xe máy SH mode dán BKS 17B6-076.95 đi sau và cùng đi ra phía cổng soát vé của Trung tâm thương mại A rồi đi thẳng đến chợ H, phường D, quận L, thành phố H. Tại đây T và D bán cả hai xe cho một người đàn ông không quen biết với giá 32.000.000 đồng. Sau khi cầm tiền bán xe, T và D thỏa thuận để lại 5.000.000 đồng để mua hai chiếc xe máy khác mục đích tiếp tục thực hiện hành vi tương tự như trên, số tiền còn lại chia nhau để chi tiêu cá nhân.

Vụ thứ hai: Khoảng 8h00’ ngày 29/12/2019, T điều khiển xe máy Yamaha CYNUS X4V, màu ghi bạc, BKS: 99K1-103.25 đến gặp và rủ D điều khiển xe máy Yamaha Nouvo màu đỏ đen, BKS: 17B5-268.94 đi đến Siêu thị Big C, Thăng Long, Số 222 T, phường T, quận C, thành phố Hà Nội. D đồng ý. Để thực hiện hành vi, T đã mua băng dính hai mặt rồi tháo BKS: 99K1- 103.25 của chiếc xe Yamaha CYNUS X4V và BKS: 17B5-268.94 của chiếc xe máy Yamaha Nouvo rồi dán băng dính vào bên trong biển số của hai xe, sau khi dán xong thì Tùng dính BKS: 99K1-103.25 vào phần đuôi của xe máy Yamaha CYNUS X4V màu ghi bạc và dính BKS 17B5-268.94 vào phần đuôi của xe máy Yamaha Nouvo. Sau đó T điều khiển xe máy Yamaha CYNUS X4V màu ghi bạc, BKS 99K1-103.25 còn D điều khiển xe máy Yamaha Nuouvo màu đỏ, BKS 17B5-268.94 đi từ Hải Phòng lên Hà Nội. Đến khoảng 12h50’ cùng ngày, D và T điều khiển xe máy vào gửi tại bãi gửi xe tầng 2 của Siêu thị Big C. Khi gửi xe ở tầng 2, T và D để hai xe máy gần nhau. Đến khoảng 13h30’ cùng ngày anh Bùi Tuấn M ( sinh năm 1988, trú tại P708 nhà C2 N,phường C, quận N, thành phố Hà Nội) điều khiển xe máy Honda SH mode, màu xanh nâu, BKS 29P1-562.29 gửi trong bãi xe ở tầng 2 Siêu thị Big C và để xe giữa xe máy của T và D. Đến khoảng 14h00 cùng ngày, T và D quay lại chỗ để xe thì thấy xe của anh M đang dựng giữa xe của T và D. T nói với D “ Ông đứng đợi để tôi lấy con xe này”. D mở cốp xe Yamaha Nouvo lên để che và quan sát bảo vệ. Còn T thì dùng chìa khóa xe Yamaha CYNUS X4V cho vào ổ khóa vặn đi vặn lại khiến khóa điện được mở. Sau đó, T bóc BKS 99K1-103.25 đang dán tại đuôi xe Yamaha CYNUS X4V của T đi đến và dán đè lên BKS 29P1-562.29 của xe SH mode và đưa vé gửi xe đã chụp hình BKS 99K1-103.25 khi vào gửi xe cho D để D điều khiển chiếc xe SH mode BKS 99K1-103.25 ra ngoài, còn T điều khiển xe Nouvo màu đỏ đen mang BKS 17B5-268.94 đi phía sau. Khi D điều khiển xe SH mode ra khu vực kiểm soát xe ra vào của bãi gửi xe siêu thị Big C thì bị nhân viên bảo vệ là anh Phan Văn Svà anh Ngô Quang Đ phối hợp cùng lực lượng Công an phường T bắt quả tang.

Cơ quan Công an đã thu giữ:

-Bị can D: 01 khẩu trang sáng màu kẻ caro; 01 mũ bảo hiểm sáng màu; 01 thẻ nhựa, 01 xe Honda SH màu xanh nâu gắn BKS 99K1-103.25, 01 điện thoại Samsung Galaxy J7 plus màu đen, gắn sim số 0968336815 -Bị can T: 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Nouvo gắn BKS 17B5- 268.94; 01 thẻ từ bằng nhựa cứng; 01 chìa khóa xe máy Nouvo; 01 mũ bảo hiểm, 01 khẩu trang, 01 cặp màu đen quai chéo, 01 vam phá khóa, 01 cờ lê, 01 dao dọc giấy, 01 điện thoại Oppo A37F màu vàng lắp sim số 0941332598 và 0793229581, 01 điện thoại Iphone 6S plus lắp sim số 0946938996; 01 ví màu nâu bên trong có 60.000 đồng tiền mặt; 01 thẻ căn cước công dân số 031078001881 mang tên Nguyễn Thanh T.

-Anh Phan Văn S là bảo vệ BigC tự nguyện giao nộp: 01 xe máy Yamaha CYNUS X4V màu ghi không gắn biển kiểm soát.

-Anh Bùi Tuấn M tự nguyện giao nộp: 01 thẻ nhựa cứng; 01 chìa khóa xe máy.

-Anh Cao Quốc N là đội trưởng bãi xe Aeon Mall Long Biên tự nguyện giao nộp 01 USB nhãn hiệu Kingston màu xanh, 01 xe máy Honda Wave RS màu đỏ, không đeo BKS, 01 xe máy Suzuki Smart màu đen, không đeo BKS.

-Chị Trần Q Thi: 01 thẻ gửi xe máy khách của Trung tâm thương mại A -Chị Nguyễn Thị Kiều D: 01 thẻ gửi xe máy khách của Trung tâm thương mại A.

Hội đồng định giá của UBND quận L kết luận số 16/TCKH- BBĐGHĐ ngày 20/2/2020 giá trị 01 xe mô tô Honda SH 150, màu đỏ, BKS 29N1-068.96 là 45.000.000 đồng; 01 xe mô tô Honda SH mode màu vàng, BKS 29P1-568.13 là 35.000.000 đồng.

Hội đồng định giá của UBND quận C, kết luận số 576/TCKh- BBĐGHĐ ngày 29/12/2019 giá trị 01 xe máy nhãn hiệu Honda SH màu xanh nâu là 45.540.000 đồng.

Cơ quan Công an đã tiến hành dẫn giải Nguyễn Thanh T và Nguyễn Ánh D đi xác định vị trí gây án, nơi tiêu thụ tài sản nhưng không thu hồi được vật chứng và không xác định được người mua hai chiếc xe máy SH 150 và SH mode.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Thanh T và Nguyễn Ánh D khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của T, D phù hợp với nhau và phù hợp với lời khai của người bị hại, người liên quan cùng các tài liệu khác thu thập trong quá trình điều tra. Tổng giá trị tài sản mà T và D chiếm đoạt được là 125.540.000 đồng.

Đối với 04 chiếc xe máy thu giữ của T và D: T và D khai nhận mua 04 chiếc xe máy trên của người đàn ông không quen biết ở chợ xe cũ chợ H, quận L, thành phố H, biển kiểm soát là biển giả do T mua ở hàng làm biển số nhà ở Hải Phòng. Cơ quan điều tra đã xác minh và ra thông báo truy tìm chủ sở hữu của những chiếc xe máy trên nhưng chưa xác định được. Vì vậy, ngày 26/3/2020 Cơ quan điều tra đã ra quyết định tách rút tài liệu liên quan đến 04 chiếc xe máy trên để xác minh xử lý sau.

-Về trách nhiệm dân sự:

+Đối với chiếc xe máy Honda SH mode màu xanh nâu, BKS: 29P1- 562.29 mất tại bãi xe BigC Thăng Long: đăng ký xe mang tên chị Bùi Thị Thái A. Chị Bùi Thị Thái A khai nhận chiếc xe trên đã bán cho cháu họ là anh Bùi Tuấn M. Cơ quan điều tra- Công an quận C đã trao trả cho anh M là chủ sở hữu hợp pháp chiếc xe. Anh M nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác.

Công ty TNHH Thương mại tổng hợp T không có yêu cầu về bồi thường dân sự + Đối với 02 chiếc xe máy bị mất tại bãi xe A: Công ty Cổ phần Thương mại Công nghệ K đã thỏa thuận bồi thường cho chị Nguyễn Thị Kiều D chủ sở hữu xe Honda SH 150, màu đỏ BKS 29N1-068.96 số tiền 130.000.000 đồng và đền bù cho chị Trần Quỳnh T chủ sở hữu xe SH mode, màu nâu vàng, BKS 29P1-568.13 số tiền 37.000.000 đồng. Do vậy, Công ty Cổ phần Thương mại Công nghệ K yêu cầu bồi thường tổng số tiền là 167.000.000 đồng. Công ty không có ý kiến gì về kết luận định giá đối với 02 chiếc xe máy nói trên.

Tại bản cáo trạng số 124/CT-VKS ngày 23/4/2020, Viện kiểm sát nhân dân quận C đã truy tố bị cáo Nguyễn Thanh T và Nguyễn Ánh D tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận C giữ nguyên quan điểm truy tố nêu trên và đề nghị áp dụng:

- Đối với bị cáo T: áp dụng điểm c, d- Khoản 1 Điều 174; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự: đề nghị xử phạt từ 05 năm 06 tháng tù đến 06 năm tù - Đối với bị cáo D: áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 174; Điểm b, s Khoản 1 Điều 51; Điểm g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự: đề nghị xử phạt từ 04 năm 06 tháng tù đến 05 năm tù Về phần dân sự: Bác yêu cầu của Nguyên đơn dân sự Công ty Cổ phần thương mại Công nghệ K, buộc các bị cáo phải liên đới bồi thường theo quy định pháp luật.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy khẩu trang, mũ bảo hiểm, cặp màu đen, quai chéo; vam phá khóa, cờ lê, dao rọc giấy, ví da màu nâu; Trả lại cho bên Công ty K thẻ từ; trả lại cho các bị cáo điện thoại di động Oppo A37F, điện thoại Iphone6S, điện thoại Sam Sung J7

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thanh T và Nguyễn Ánh D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với nội dung cáo trạng đã nêu. Xét lời khai của các bị cáo là thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai của nguyên đơn dân sự, vật chứng thu được của vụ án. Đủ cơ sở kết luận: Khoảng 8h 00 ngày 20/12/2019, tại Trung tâm thương mại A, thành phố Hà Nội, Nguyễn Thanh T và Nguyễn Ánh D đã có hành vi lừa đảo nhân viên bảo vệ của Công ty Cổ phần Thương mại K để chiếm đoạt 01 xe mô tô Honda SH150, màu đỏ BKS 29 N1-068.96 trị giá 45.000.000 đồng chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị Kiều D; và 01 xe mô tô Honda SH mode, màu vàng, BKS 29P1- 568.13 trị giá 35.000.000 đồng chủ sở hữu là chị Trần Quỳnh T.

Khoảng 8h 00’ ngày 29/12/2019, tại Siêu thị B ,Nguyễn Thanh T và Nguyễn Ánh D đã có hành vi lừa đảo nhân viên bảo vệ của Công ty TNHH Thương mại tổng hợp T chiếm đoạt 01 xe máy nhãn hiệu Honda SH mode màu xanh nâu trị giá 45.540.000 đồng chủ sở hữu là anh Bùi Tuấn M và bị bắt quả tang.

Tổng giá trị tài sản mà T và D chiếm đoạt của Công ty Cổ phần Thương mại Công nghệ K và Công ty TNHH Thương mại tổng hợp T là 125.540.000 đồng.

[3]. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến khách thể trực tiếp là quyền sở hữu về tài sản của người khác gây mất trật tự ổn định xã hội. Các bị cáo biết rõ hậu quả nguy hiểm xảy ra nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội với mục đích vụ lợi cá nhân thể hiện ý thức của các bị cáo là xem nhẹ pháp luật, coi thường tài sản của người khác. Do đó, cần áp dụng hình phạt nghiêm minh.

Đây là vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, bị cáo Nguyễn Thanh T là người chủ mưu, thực hành, bị cáo Nguyễn Ánh D với vai trò người giúp sức tích cực. Bị cáo T là người chuẩn bị vam phá khóa, cờ lê, băng dính…và là người thực hiện việc bóc biển số xe có giá trị thấp dán đè lên biển số xe có giá trị cao. Khi được T rủ, D đã đồng ý với kế hoạch, và là người đứng cảnh giới cho T khi T thực hiện hành vi phạm tội. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, T và D mỗi người điều khiển một chiếc xe vừa đánh tráo biển kiểm soát để lừa đảo nhân viên bảo vệ. Các bị cáo đã tiêu thụ được 02 chiếc xe máy chiếm đoạt được tại Trung tâm thương mại A, cùng nhau đem bán được số tiền 32.000.000 đồng. Số tiền đó các bị cáo đã chia nhau ăn tiêu hết.

Về nhân thân: Các bị cáo đều là người có nhân thân xấu. Bị cáo T đã có 05 tiền án, lần phạm tội lần này của bị cáo được xác định là tái phạm nguy hiểm. Bị cáo D có 02 tiền án, tuy nhiên các tiền án của bị cáo D đều đã được xóa. Vì vậy, phải xử phạt các bị cáo hình phạt tù mới tương xứng với mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo. Và mức hình phạt của bị cáo T phải cao hơn so với bị cáo D.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng “ phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng xem xét thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; trước phiên tòa bị cáo D đã tự nguyện bồi thường khắc phục một phần thiệt hại do mình gây ra. Do đó, áp dụng điểm b, s Khoản 1 Điều 51 đối với bị cáo D và áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo T để giảm một phần hình phạt cho các bị cáo.

Ngoài hình phạt chính, các bị cáo phải chịu thêm hình phạt bổ sung là hình phạt tiền nhưng xét hoàn cảnh gia đình các bị cáo khó khăn, nên miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho các bị cáo.

Về dân sự: - Đối với chiếc xe máy Honda SH mode màu xanh nâu BKS 29P1-562.29 tại Trung tâm Thương mại B: cơ quan công an đã ra quyết định xử lý vật chứng trao trả cho anh Bùi Tuấn M là chủ sở hữu hợp pháp. Anh M đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác.

-Đối với 02 chiếc xe máy đã bị mất tại bãi xe A: Công ty Cổ phần Thương mại Công nghệ K đã thỏa thuận bồi thường cho chị Nguyễn Thị Kiều D chủ sở hữu chiếc xe Honda SH, màu đỏ số tiền 130.000.000 đồng và đền bù cho chị Trần Quỳnh Tchủ sở hữu xe SH mode màu nâu vàng số tiền 37.000.000 đồng. Nay tại phiên tòa, Công ty Cổ phần Thương mại Công nghệ K yêu cầu các bị cáo bồi thường tổng số tiền là 167.000.000 đồng. Công ty không có ý kiến gì về kết luận định giá đối với 02 chiêc xe máy nêu trên.

Công ty TNHH Thương mại tổng hợp T không yêu cầu bồi thường dân sự Tại phiên tòa, các bị cáo đề nghị hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo bồi thường về trách nhiệm dân sự theo kết luận định giá của Hội đồng định giá.

Xét thấy yêu cầu bồi thường của Công ty Cổ phần Thương mại Công nghệ K là có căn cứ nhưng việc bồi thường của Công ty đối với các bị hại là tự nguyện nên Hội đồng xét xử chỉ chấp nhận số tiền bồi thường theo Kết luận định giá của Hội đồng định giá UBND quận L. Buộc các bị cáo phải liên đới bồi thường cho Công ty Cổ phần Thương mại Công nghệ K số tiền 80.000.000 đồng theo kết luận định giá của Hội đồng định giá UBND quận L.

Trong đó, bị cáo Nguyễn Thanh T phải chịu trách nhiệm bồi thường số tiền 40.000.000 đồng, bị cáo Nguyễn Ánh D phải chịu trách nhiệm bồi thường số tiền 40.000.000 đồng. Ghi nhận sự tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả của bị cáo Nguyễn Ánh D số tiền 5.000.000 trước phiên tòa nộp tại Chi cục thi hành án quận C theo biên lai số: AA/2016/ 0002225, bị cáo D còn phải tiếp tục bồi thường cho bên Công ty số tiền 35.000.000 đồng.

-Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: 01 khẩu trang màu kẻ caro đã qua sử dụng; 01 mũ bảo hiểm sáng màu đã qua sử dụng; 01 thẻ nhựa; 01 thẻ từ bằng nhựa cứng:

01 mũ bảo hiểm đã qua sử dụng; 01 khẩu trang đã qua sử dụng; 01 cặp màu đen, quai chéo đã qua sử dụng; 01 vam phá khóa; 01 cờ lê đã qua sử dụng; 01 dao dọc giấy đã qua sử dụng; 01 ví da màu nâu đã qua sử dụng; 01 thẻ nhựa cứng; 02 thẻ gửi xe máy khách của Trung tâm Thương mại A Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thanh T 01 thẻ căn cước số 031078001881 mang tên Nguyễn ThanhT Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thanh T 01 điện thoại Oppo A37F màu vàng; 01 điện thoại di động Iphone 6S plus; 60.000 đồng, trả lại cho bị cáo Nguyễn Ánh D 01 điện thoại di động Sam sung J7,nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thanh T và Nguyễn Ánh D phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Áp dụng điểm c, d khoản 2 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Nguyễn Thanh Tùng Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điểm g, Khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Nguyễn Ánh Dương - Điều 135, 136, 331, 333, 336, 337 Bộ luật tố tụng hình sự - Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T : 03 năm 06 tháng tù( ba năm sáu tháng tù), thời hạn tù tính từ ngày 30/12/2019

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ánh D: 02 năm tù (hai năm tù), thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 30/12/2019 đến ngày 7/1/2020 Miễn hình phạt tiền đối với các bị cáo.

Buộc bị cáo Nguyễn Thanh T phải bồi thường cho Công ty Cổ phần Thương mại Công nghệ K số tiền 40.000.000 đồng Buộc bị cáo Nguyễn Ánh D phải bồi thường cho Công ty Cổ phần Thương mại Công nghệ K số tiền 35.000.000 đồng Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 khẩu trang màu kẻ caro đã qua sử dụng; 01 mũ bảo hiểm sáng màu đã qua sử dụng; 01 thẻ nhựa; 01 thẻ từ bằng nhựa cứng; 01 mũ bảo hiểm đã qua sử dụng; 01 khẩu trang đã qua sử dụng; 01 cặp màu đen, quai chéo đã qua sử dụng; 01 vam phá khóa; 01 cờ lê đã qua sử dụng; 01 dao dọc giấy đã qua sử dụng; 01 ví da màu nâu đã qua sử dụng; 01 thẻ nhựa cứng; 02 thẻ gửi xe máy khách của Trung tâm Thương mại A Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thanh T 01 thẻ căn cước số 031078001881 mang tên Nguyễn Thanh T Trả lại cho bị cáo Nguyễn Ánh D 01 điện thoại di động kiểu dáng Samsung J7 Plus màu đen, bên trong có sim số 0968336815, điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng; 60.000 đồng đồng nộp tại Kho bạc Nhà nước quận C tại tài khoản số 3949 MQH 1049179 ngày 24/4/2020 ; Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thanh T 01 điện thoại di động kiểu dáng Oppo A37F màu vàng, bên trong có sim số 0941332598 và 0793229581, điện thoại đã qua sử dụng không kiểm tra chất lượng; 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone 6S plus màu đen, bên trong có sim số 0946938996, điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Các vật chứng trên đang lưu tại Chi cục thi hành án dân sự quận C theo biên bản giao nhận vật chứng số 146/THA-CA ngày 24/4/2020) Các bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Thanh T phải chịu 2.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Ánh D phải chịu 1.750.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

Nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

324
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 145/2020/HS-ST ngày 05/06/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:145/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cầu Giấy - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;