Bản án 144/2021/HSST ngày 27/09/2021 về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 144/2021/HSST NGÀY 27/09/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 27 tháng 09 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, đã tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 146/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 09 năm 2021. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 151/2021/HSST-QĐ ngày 15/09/2021 đối với bị cáo:

Bị cáo: Nguyễn Văn B, sinh năm 1992.

HKTT: Thôn Thụy Mão, xã Mão Điền, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Ph và bà Nguyễn Thị L; Gia đình có 02 anh chị em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/4/2021 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại:

1. Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1940. (Đã chết) Người đại diện: Anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1977. (Có mặt) Địa chỉ: thôn Thuỷ, xã Chi Lăng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

2. Bà Nguyễn Thị L1, sinh năm 1942. (Đã chết) Người đại diện: Anh Chu Văn Cương, sinh năm 1966. (Vắng mặt) Địa chỉ: thôn Đồng, xã Chi Lăng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

3. Chị Nguyễn Thị Tr, sinh năm 1967. (Đã chết) Người đại diện: Anh Phan Văn L2, sinh năm 1990. (Vắng mặt) Địa chỉ: thôn Đồng, xã Chi Lăng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Văn Ph, sinh năm 1971. (Có mặt) Địa chỉ: Thôn Thụy Mão, xã Mão Điền, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

2. Ông Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1962. (Có mặt) Địa chỉ: Khối 10, Phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn, Lạng Sơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn B, sinh năm 1992 ở thôn Thụy Mão, xã Mão Điền, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh có giấy phép lái xe ô tô số 270176021998 hạng B2 do Sở giao thông vận tải tỉnh Bắc Ninh cấp ngày 26/12/2017 có giá trị đến ngày 26/12/2027. Khoảng 18 giờ ngày 26/4/2021, B điều khiển xe ô tô nhãn hiệu Daewoo Lacetti, màu bạc, BKS 29A - 746.93 của B từ nhà đến gara ô tô của anh Nguyễn Đăng Đ, sinh năm 1993 tại thôn Giang Liễu, xã Phương Liễu, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh chơi (Đ là bạn cùng thôn với B). Khi đến gara ô tô của anh Đ, B gặp anh Nguyễn Khắc P, sinh năm 1993, anh Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1990 và anh Đỗ Đăng Th, sinh năm 1989 đều là bạn cùng thôn với B. B chơi tại đây đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày thì ăn cơm cùng các anh Đ, P, T, Th và 02 - 03 người bạn của anh Đ. Sau khi ăn uống xong, đến khoảng 23 giờ cùng ngày B ngủ lại tại gara ô tô của anh Đ cùng anh P, anh T và anh Th. Khoảng 05 giờ sáng ngày 27/4/2021, B bắt đầu điều khiển xe ô tô để về nhà theo hướng Quốc lộ 18, đi vào đường tỉnh lộ 279 rồi rẽ lên đường đê sông Đuống hướng đi cầu Hồ. Quá trình điều khiển xe đi trên đường B có buồn ngủ. Khi đi đến đoạn Km17+800 thuộc địa phận thôn Mai Thôn, xã Chi Lăng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, lúc này khoảng 05 giờ 40 phút, B đi tốc độ khoảng 50 km/h và trong khi lái xe thỉnh thoảng B có ngủ gật nên mất tập trung. Khi đang đi B thấy xe ô tô bị rung và nghiêng về bên phải nên tỉnh dậy thấy bánh trước và sau bên phải xe ô tô đang đi dưới dệ cỏ và phát hiện phía trước cách đầu xe ô tô khoảng 05 - 07m có bà Nguyễn Thị L1, bà Nguyễn Thị M và chị Nguyễn Thị Tr, cùng HKTT: thôn Đồng, xã Chi Lăng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh đang đi bộ tập thể dục trên đường đê, sát mép đường bên phải cùng chiều (chị Tr đi một mình phía trước, bà L1 và bà M đi cùng nhau sát ngay phía sau). Do ngủ gật, không làm chủ được tay lái nên xe ô tô do B điều khiển đã đâm vào phía sau bà L1, bà M và chị Tr. Sau khi bị đâm, bà L1 bị hất văng xuống sườn đê bên phải, bà M và chị Tr bị hất bắn lên capo đập người vào kính chắn gió phía trước. Sau đó, chị Tr bị hất văng xuống sườn đê bên phải, còn bà M cũng bị hất văng xuồng dệ đường bên phải. Sau khi gây tai nạn B hoảng sợ đã điều khiển xe ô tô bỏ chạy về hướng cầu Hồ. Thấy B gây tai nạn và điều khiển xe bỏ chạy nên ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1960, Phạm Văn Kh, sinh năm 1946, Nguyễn Văn H, sinh năm 1958 đều có HKTT: thôn Mai Thôn, xã Chi Lăng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh đi tập thể dục ở phía trước hướng ngược chiều cách khoảng 100m đã yêu cầu B dừng xe nhưng B không dừng xe mà tiếp tục điều khiển xe bỏ chạy. B điều khiển xe bỏ chạy được khoảng 3 km thì rẽ vào đường làng thôn Hán Đà, xã Hán Quảng dừng xe và gọi điện thoại cho anh Tài báo vừa gây tai nạn tại thôn Mai Thôn, xã Chi Lăng, đồng thời bảo anh Tài đến đưa B đi đầu thú. Sau đó, anh T và anh Th đến gặp B, cùng B đến Công an huyện Quế Võ đầu thú và giao nộp xe ô tô nhãn hiệu Daewoo Lacetti, màu bạc, BKS 29A - 746.93, giấy phép lái xe ô tô số 270176021998 mang tên Nguyễn Văn B, giấy chứng nhận đăng ký xe số 113524 và giấy chứng nhận kiểm định số KD3271100 của xe ô tô BKS 29A - 746.93. Sau khi vụ tai nạn xảy ra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ đã tiến hành các hoạt động điều tra để làm rõ vụ tai nạn giao thông như sau:

1. Kết quả khám nghiệm hiện trường:

Hiện trường vụ TNGT xảy ra tại Km 17 + 800 đường tỉnh lộ 279 thuộc đường đê thôn Mai Thôn, xã Chi Lăng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Đường thẳng, mặt đường dải bê tông khô rộng 5 mét dành cho hai chiều xe cơ giới và xe thô sơ chạy. Tầm quan sát không hạn chế; dệ đê có đất, cỏ ướt.

- Đánh số thứ tự theo số tự nhiên:

(1) Vết bánh lốp và cỏ gãy kích thước 30,4 m x 25 cm; (2) Vị trí mũ vải màu đen kích thước 30 x 30 x 5 cm; (3) Vị trí mũ vải màu xanh kích thước 37 x 37 x 6 cm;

(4) Chiếc dép bên trái màu xanh cỡ 42 kích thước 24 x 10 x 5 cm;

(5) Vị trí nạn nhân Nguyễn Thị L1; (6) Vùng máu kích thước 80 x 20 cm;

(7) Chiếc dép bên trái màu đen cỡ 43 kích thước 24 x 9 x 6 cm;

(8) Vòng chun màu đen kích thước 6 x 6 x 5 cm;

(9) Chiếc dép bên phải màu xanh cỡ 42 kích thước 24 x 10 x 5 cm;

(10) Vùng tóc màu trắng kích thước 98 x 15 cm; (11) Mảnh nhựa vỡ màu đen kích thước 25 x 3 cm; (12) Vết trượt xước kích thước 10,7 m x 01 cm; (13) Vị trí nạn nhân Nguyễn Thị M;

(14) Mảnh nhựa cao su màu đen kích thước 70 x 1 cm;

(15) Vùng máu kích thước 10 x 10 cm;

(16) Đống gạch vỡ kích thước 3,5 x 3,3 x 1 m;

- Xác định điểm mốc và mép đường làm mép đường chuẩn: Chọn cột Km 17 + 800m đê tỉnh lộ 279 làm điểm mốc cố định và chọn mép đường bên phải tính theo hướng Bồng Lai - Chi Lăng làm mép đường chuẩn để đo đạc dấu vết phương tiện trên hiện trường.

- Mô tả thứ tự, vị trí, dấu vết, phương tiện, nạn nhân theo số tự nhiên:

(1) Vết bánh lốp và cỏ gãy kích thước 30,4 m x 25 cm: Nằm trên dệ đê điểm khởi đầu cách mép đường 10 cm, cách điểm vuông góc với cột Km 17 + 800m là 2,8 m, từ điểm vuông góc chân cột Km 17 + 800m là 60 cm, điểm khởi đầu hướng Bồng Lai cách vị trí số (2) là 15,4 m, điểm cuối hướng Chi Lăng tiếp giáp với mép đường bên phải, cuối vết (1) ở vị trí mép đường có bám dính chất màu nâu đen kích thước 40 x 2 cm, cuối vết (1) có bám dính cỏ gãy kích thước 24 x 5 cm, cuối vết (1) cách vị trí vết (7) là 5,1 m;

(2) Vị trí mũ vải màu đen kích thước 30 x 30 x 5 cm: nằm trên mặt đường đê cách vị trí số (3) là 60 cm;

(3) Vị trí mũ vải màu xanh kích thước 37 x 37 x 6 cm: Nằm trên mép đường đê cách đoạn gần nhất vị trí số (4) là 56 cm;

(4) Chiếc dép bên trái màu xanh cỡ 42, kích thước 24 x 10 x 5 cm: Điểm gần nhất ra mép đường là 1,15 m, cách điểm đầu nạn nhân số (5) là 4,5 m;

(5) Vị trí nạn nhân Nguyễn Thị L1: Nằm ngửa dưới sườn đê, đầu hướng Bồng Lai, cách mép đường 5,6 m và tiếp giáp vùng máu số (6), cách đỉnh đầu nạn nhân số (13) là 29 m; Gót chân hướng Chi Lăng, gót chân trái cách mép đường 5,8 m, chân phải cách mép đường 5,9 m;

(6) Vùng máu kích thước 80 x 20 cm: Tiếp giáp đầu nạn nhân Làn (số 5), điểm gần nhất cách mép đường 4,9 m, cách điểm gần nhất vết số (7) là 13,3 m;

(7) Chiếc dép bên trái màu đen cỡ 43 kích thước 24 x 9 x 6 cm: Điểm gần nhất cách mép đường 4,4 m, cách vị trí số (8) là 4,37 m;

(8) Vùng chun màu đen kích thước 6 x 6 x 5 cm: Điểm gần nhất cách mép đường 5 cm; Từ vị trí này về hướng Bồng Lai 70 cm phát hiện 01 mảnh chất màu ghi kích thước 2 x 3 cm nằm sát mép đường, cách tâm vùng tóc màu trắng số (10) là 5,3 m, cách điểm gần nhất vị trí số (9) là 5 m;

(9) Chiếc dép bên phải màu xanh cỡ 42 kích thước 24 x 10 x 5 cm: Điểm gần nhất cách mép đường 4,9 m;

(10) Vùng tóc màu trắng kích thước 98 x 15 cm: Nằm rải rác trên mép đường giữa dệ đê và mép đường, tâm cách điểm gần nhất vị trí số (11) là 50 cm;

(11) Mảnh nhựa vỡ màu đen kích thước 25 x 3 cm: Điểm gần nhất cách mép đường 40 cm, cách đầu vết (12) là 2,4 m;

(12) Vết trượt xước kích thước 10,7 m x 01 cm: Điểm khởi đầu hướng Bồng Lai cách mép đường 18 cm, điểm cuối hướng Chi Lăng tiếp giáp với nạn nhân số (13);

(13) Vị trí nạn nhân Nguyễn Thị M: Nằm ngửa, đầu hướng tâm đường hơi chếch về phía Chi Lăng, đỉnh đầu vào mép đường 40 cm, cách điểm gần nhất vị trí số (14) là 1,2 m; gót nạn nhân hướng sườn đê bên phải và hơi chếch về phía Bồng Lai, gót chân phải ra mép đường 60 cm, gót chân trái ra mép đường 90 cm;

(14) Mảnh nhựa cao su màu đen kích thước 70 x 1 cm: Điểm gần nhất cách mép đường 1,3 m;

(15) Vùng máu kích thước 10 x 10 cm: Nằm tiếp giáp phía dưới cổ chân trái nạn nhân Mỵ và trên dệ đê điểm gấn nhất ra mép đường là 80 cm;

(16) Đống gạch vỡ kích thước 3,5 x 3,3 x 1 m: Điểm gần nhất ra mép đường 45 cm, cách đỉnh đầu nạn nhân Làn là 1,5 m.

Quá trình khám nghiệm hiện trường, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ đã tiến hành thu giữ:

+ 01 mũ vải màu đen kích thước 30 x 30 x 5 cm (vị trí 2);

+ 01 mũ vải màu xanh kích thước 37 x 37 x 6 cm (vị trí 3);

+ 01 đôi dép màu xanh cỡ 42 kích thước 24 x 10 x 5 cm (vị trí 4, 9);

+ 01 chiếc dép bên trái màu đen cỡ 43 kích thước 24 x 9 x 6 cm (vị trí 7);

+ 01 vòng chun màu đen kích thước 6 x 6 x 5 cm (vị trí 8);

+ 01 mảnh nhựa trắng trong kích thước 6 x 3,5 cm (vị trí 8);

+ 01 mảnh chất màu ghi kích thước 2 x 3 cm (vị trí 8);

+ 01 mảnh nhựa cao su màu đen kích thước 70 x 1 cm (vị trí 14).

2. Kết quả khám nghiệm phương tiện có liên quan đến vụ tai nạn:

Khám nghiệm xe ô tô nhãn hiệu Daewoo Lacetti, màu xám, BKS 29A - 746.93.

Mặt cản trước vị trí cách đất 24 cm, cách trục bánh trước bên phải 40 đến 120 cm có dấu vết trượt xước, bong chóc lớp sơn, lớp bả ma tít diện 90 x 11 cm chiều hướng từ trước ra sau; mặt trên của gờ trước cản này thấy bám dính cổ cây, thực vật màu xanh còn tươi; biển kiểm soát 29A - 746.93 gắn ở phía trước cản này có dấu vết cong vênh kích thước 48 x 12 cm, chiều hướng từ trước ra sau, nứt vỡ tấm nhựa meca trắng trong ốp ngoài kiểm kiểm soát này kích thước 39 x 11 cm, tại vị trí chân ký tự A của dãy số ký tự 29A, cách mặt đất 42 cm, cách trục bán trước bên phải 77 cm, tiến hành ghép khớp mảnh nhựa trắng trong thu giữ được tại hiện trường kích thước 6 x 3,5 cm thấy trùng khớp;

Gãy bung bật nhựa hốc gió vị trí cách mặt đất 73 cm, cách trục bánh trước 78 cm, diện bung bật 76 x 7 cm chiều hướng từ trước ra sau;

Móp lõm toàn bộ mặt trước và trên capo phía trước, diện móp lõm 125 x 97 cm, móp lõm sâu nhất 08 cm, chiều hướng móp lõm từ trước ra sau, từ trên xuống dưới, trên diện móp lõm mặt trên nắp capo vị trí cách trục bánh trước bên phải 120 cm, cách ký tự “Sports” dán trên mép capo bên trái 11 cm có dấu vết trượt xước bám dính chất màu tím đen dạng vải sợi kích thước 26 x 2 cm, chiều hướng từ trước ra sau;

Toàn bộ nắp capo phần móp lõm thấy sạch bụi so với vị trí xung quanh của xe, hai mép nắp capo phía trước tạo khoảng hở, chỗ rộng nhất 5 cm, chỗ hẹp nhất 3 cm;

Nứt vỡ 2/3 nhựa gắn phía dưới mép kính chắn gió phía trước diện 60 x 8 cm, chiều hướng nứt vỡ từ trên xuống dưới tạo khoảng hở với mép kính chắn gió 6 cm; bong bật khuyết Gioăng cao su ốp mép dưới ½ kính chắn gió phía trước bên phải, lộ lớp bụi kích thước 70 x 1,5 cm;

Tiến hành ghép khớp mảnh nhựa dạng Gioăng màu đen kích thước 70 x 1 cm thu tại hiện trường với mép kính chắn gió phía trước bên phải thấy trùng khớp;

Cần gạt nước phía trước bên phải có dấu vết cong gập tương ứng với diện nứt vỡ nhựa và Gioăng mép kính dưới phía trước kích thước 27 x 2,5 cm, làm phần kim loại cần gạt nước này ép sát với mặt kính chắn gió, phần ép sát mặt kính nứt vỡ kích thước 40 x 4 cm, tập trung tại ½ bên phải kính chắn gió phía trước.

Nứt vỡ 2/3 mặt kính chắn gió phía trước diện đồng tâm tập trung phía bên phải kính chắn gió kích thước 50 x 28 cm, diện lan tỏa kích thước 114 x 85 cm chiều hướng từ trước ra sau, vị trí đồng tâm cách đất 123 cm;

Xem xét mặt gầm tương ứng phía dưới cản trước của xe, mặt dưới nhựa bảo vệ gầm vị trí cách đất 19 cm, cách trục bánh trước bên phải 60 cm có dấu vết bám dính, găm đất màu nâu kích thước 16 x 14 cm, phần đất găm bám dính vào nhựa kèm cỏ cây, thực vật màu xanh còn tươi, chiều hướng bám dính từ trước về sau; vị trí cách đất 18 cm, cách trục bánh trước bên phải 106 cm có dấu vết bám dính găm màu nâu và cỏ cây, thực vật màu xanh còn tươi kích thước 30 x 8 cm, chiều hướng bám dính từ trước về sau; nhựa mép dưới vị trí cách đất 20 cm, cách trục bánh trước bên phải 130 cm có dấu vết vênh kích thước 37 x 2 cm, phần vênh bám dính chất màu nâu chiều hướng từ trước về sau;

Mặt trong má lốp bánh trước bên phải tại phía trên dãy số, chữ “215155R17” có dấu vết trượt xước cao su kích thước 39 x 6 cm, trên diện trượt xước bán dính dạng chà xát cỏ cây màu xanh còn tươi;

Mặt ngoài cánh cửa phía trước bên phải đến mặt trước gương chiếu hậu bên phải có dấu vết bám dính dạng bắn tạo thành các giọt chất bẩn dạng đất kích thức 100 x 120 cm, chiều hướng từ dưới lên trên;

Mặt ngoài cản trước bên phải vị trí đèn sương mù phía trước bên phải thấy bám dính chất bẩn đất dạng phủ màu nâu kích thước 60 x 40 cm, chiều hướng phủ bám dính từ trước ra sau, từ dưới lên trên;

Diện trượt mất bụi trên mặt capo móp lõm có chiều hướng từ trước ra sau, từ trái qua phải;

Tại cần gạt nước cao su bên trái còn găm sợi tóc bạc có chân, găm giữa mặt chắn gió với mặt cần gạt nước của kính chắn gió.

3. Khám nghiệm tử thi:

3.1. Khám nghiệm tử thi bà Nguyễn Thị L1.

* Khám ngoài.

- Tử thi là nữ giới được xác định là bà Nguyễn Thị L1, chiều dài tử thi 1,57m, thể trạng trung B, tóc đen nhuộm đen để dài, tình trạng tử thi xác mềm.

- Trang phục: Mặc áo dài tay nền xanh có nhiều hoa văn màu nâu, thân áo phía trước bên phải cách đường chỉ may dọc thân áo phải 2 cm và cách đường chỉ may vạt áo phải 12 cm có diện mài trượt và bám dính chất màu nâu và cây cỏ nằm dọc trên diện 40 x 17 cm, mặt sau ống tay áo bên trái cách đường chỉ may thân áo, ông tay áo trái 13 cm và cách đường chỉ may dọc phía trong ông tay áo 9 cm có diện mài trượt rách vải và bám dính chất màu xám kích thước 4 x 2,5 cm; trong mặc áo cộc tay màu trắng, toàn bộ mặt ngoài thân áo rải rác có bám dính chất màu nâu đỏ; rách bung đường chỉ may cổ áo và vùng vai áo bên trái trên diện 23 x 2,5 cm. Mặc quần dài màu đen, toàn bộ thân quần vải nửa trên hai ống quần có bám dính chất màu nâu không liên tục trên diện 50 x 45 cm.

- Các dấu vết tổn thương trên cơ thể:

Vùng đỉnh đầu có vết thương rách da hình thước thợ, một cạnh dài 12cm, một cạnh dài 08cm mở góc ra phía trước; vùng trán đỉnh bên trái ngay sát đường giữa và cách trên đường chân tóc gáy 06 cm có vết thương rách da kích thước 03 x 1,5 cm; vùng trán phải ngay sát trên cung lông mày phải và cách đường giữa phía trước 1,5 cm có vết thương rách da nằm dọc kích thước 2,3x 0,4 cm;

Thành ngực bên phải mất vững, bụng chướng nhẹ;

Vùng mông bên trái có diện xây xát da bầm tụ máu kích thước 17 x 16 cm, điểm thấp nhất của điểm này cách trên gót chân trái 72 cm;

Vùng cột sống lưng và cột sống thắt lưng biến dạng và mất đường cong tự nhiên; Mặt sau khuỷu tay phải có vết bầm tụ máu kích thước 5 x 4cm; mặt sau tay phải đến mu bàn tay có nhiều vết rách da và bầm tụ máu không liên tục trên diện 15 x 10 cm;

Mặt sau khuỷu tay trái có vết bầm tụ máu kích thước 5 x 3 xm; mặt sau cổ tay trái đến mu bàn tay có nhiều vết xây xát, rách da nông và bầm tụ máu không liên tục trên diện 14 x 9 cm;

Mặt trước nửa dưới cẳng chân phải đến cổ chân có nhiều vết tụ máu không liên tục trên diện 22 x 8 cm; mặt sau 1/3 dưới cẳng chân phải có vết xây xát da kích thước 2 x 1,5 cm, trung tâm vết này cách trên gót chân phải 26 cm;

Mặt trước ngoài 1/3 giữa đùi trái có diện xây xát da kích thước 10 x 6 cm; Mặt trước đầu gối trái có vết xây xước ra kích thước 1 x 1,5 cm; mặt ngoài dưới 1/3 cẳng chân trái có diện xây xát da kích thước 5,5 x 3 cm, điểm thấp nhất điểm này cách trên gót chân trái 16 cm; mặt sau 1/3 dưới đùi bên trái có diện bầm tụ máu không liên tục kích thước 13 x 7 cm, điểm cao nhất của điểm này cách trên gót chân trái 50 cm.

* Khám trong:

Giải phẫu vùng đầu: Bong tróc tổ chức dưới da vùng đỉnh và vùng trán đỉnh bên trái: dạn khớp liên đỉnh, khớp trán đỉnh và khớp thái dương đỉnh bên trái. Tại các vết dạn khớp có nhiều máu chảy ra.

Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 170A/KLPY-PC09 ngày 04/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: Nguyên nhân chết của bà Nguyễn Thị L1 do chấn thương sọ não nặng, chấn thương cột sống trên người đa chấn thương.

3.2. Khám nghiệm tử thi bà Nguyễn Thị M.

* Khám ngoài.

- Tử thi là nữ giới được xác định là bà Nguyễn Thị M, chiều dài tử thi 1,48 m, thể trạng trung B, tóc trắng để dài, tình trạng tử thi xác mềm.

- Trang phục: Mặc áo dài tay nền đen có nhiều hoa văn màu tím, thân áo phía trước bên trái ngay sát cổ áo và cách đường chỉ may dọc thân áo giữa 4,5 cm có bám dính chất màu nâu kích thước 10 x 8 cm, mặt sau nửa dưới ống tay áo bên trái có diện mài trượt rách vải và bám dính chất màu nâu trên diện 24 x 9 cm, mặt sau ống tay áo bên phải cách đường chỉ may phía trong ống tay áo 7 cm và cách gấu tay áo 22 cm có diện rách vải kích thước 7 x 6 cm; trong mặc áo nền đen có hoa văn màu trắng; mặc quần dài màu đen, mặt trước toàn bộ hai ống quần có nhiều vết mài trượt rách vải và bám dính chất màu nâu không liên tục, mặt sau toàn bộ thân quần và ống quần bên phải có nhiều vết mài trượt và bám dính chất màu nâu.

- Các dấu vết tổn thương trên cơ thể:

Vùng trán bên trái ngay sát đường giữa và sát với đường chân tóc trán đến nửa mặt bên trái có nhiều vết xây xát, rách da và bầm tụ máu không liên tục trên diện 26 x 15 cm; toàn bộ nửa mặt phải đến vùng cằm phải rải rác có nhiều vết xây xát da trên diện 17 x 7,5 cm;

Sờ nắn thấy lạo xạo xương vùng các đốt sống cổ;

Thành ngực mất vững, toàn bộ vùng ngực trái đến vùng bụng có nhiều vết xây xát da không liên tục trên diện 25 x 20 cm;

Mặt sau khuỷu tay phải có diện xây xát da, bầm tụ máu kích thước 8,5 x 8 cm, trung tâm diện này cách trên gót chân phải 96 cm; mu bàn tay phải rải rác có vết xây xát da kích thước 6 x 5,5 cm;

Mặt sau khuỷu tay trái có vết rách da kích thước 5 x 2,5 cm; mặt trong cổ tay trái có vết rách da kích thước 5,5 x 2,5 cm, trung tâm diện này cách trên gót chân trái 96 cm;

Gãy kín 1/3 dưới 2 xương cẳng chân phải; mắt cá trong chân phải có diện xây xát da kích thước 2 x 2 cm;

Mặt trước đầu gối trái đến 1/3 giữa cẳng chân trái có diện xây xát da, bầm tím kích thước 22 x 3,5 cm; gãy hở 1/3 dưới hai xương cẳng chân trái; mặt trước trong 1/3 dưới cẳng chân trái có vết rách da kích thước 4,5 x 2,5 cm;

Mặt sau trong 1/3 dưới đùi trái đến nửa trên cẳng chân trái có nhiều vết bầm tụ máu không liên tục trên diện 36 x 10 cm, điểm cao nhất của diện này cách trên gót chân trái 51 cm, điểm thấp nhất cách trên gót chân trái 15 cm.

* Khám trong:

Giải phẫu vùng cổ: Tụ máu vùng quanh cột sống cổ, gãy rời khớp đốt sống cổ C1, C2, C3 vỡ đốt sống C1, đứt hành tủy vùng ngay mức C1, C2.

Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 170B/KLPY-PC09 ngày 04/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: Nguyên nhân chết của bà Nguyễn Thị M do chấn thương đứt hành tủy cổ và hành não dẫn đến suy hô hấp, suy tuần hoàn cấp trên người đa chấn thương.

3.3. Khám nghiệm tử thi chị Nguyễn Thị Tr.

* Khám ngoài.

- Tử thi là nữ giới được xác định là Nguyễn Thị Tr, chiều dài tử thi 1,40 m, thể trạng trung B, tóc đen để dài, tình trạng tử thi xác mềm.

- Trang phục: Mặc áo phông cộc tay hoa văn màu sáng, mặt trước dưới thân áo bên phải có diện bám dính chất bẩn màu xám kích thước 18 x 16 cm, mặt sau dưới thân áo bên phải có diện chà rách vải và bám dính chất bẩn màu xanh kích thước 18 x 12 cm. Mặc quần dài màu đen, mặt trước toàn bộ thân quần và ống quần bên phải có diện chà sát vải và bám dính chất bẩn màu vàng đất, màu xanh không liên tục kích thước 78 x 18 cm; Mặt trước 1/3 giữa ống quần bên trái có diện bám dính chất bẩn màu vàng đất kích thước 25 x 10 cm; Vùng mông quần bên phải có diện bám dính chất bẩn màu vàng đất kích thước 11 x 5 cm.

- Các dấu vết tổn thương trên cơ thể:

Vùng dưới cằm có vết xây xát da và bầm tụ máu kích thước 5 x 4 cm; Vùng cổ, gáy không phát hiện tổn thương.

Thành ngực mất vững; Vùng ngực bên trái ngay dưới xương đòn trái có vết bầm tím kích thước 5 x 2 cm;

Mặt sau trong ½ trên cẳng tay phải có diện xây xát da và bầm tím kích thước 16 x 8 cm;

Mặt sau khớp gối bên phải đến mặt sau ngoài 1/3 trên cẳng chân phải có diện xây xát da không liên tục kích thước 19 x 2 cm;

- Mặt sau 1/3 giữa đùi phải có diện bầm tím kích thước 13 x 12 cm, trung tâm vết này cách gót chân phải 48 cm, điểm cao nhất của vết bầm tím cách gót chân phải 58 cm;

- Mặt sau 1/3 giữa đùi trái đến mặt sau 1/3 trên cẳng chân trái có diện bầm tím và xây xát da kích thước 35 x 10 cm, điểm cao nhất của vết bầm tím này cách gót chân trái 55 cm, điểm thấp nhất của vết bầm tím này cách gót chân trái 19 cm.

* Khám trong:

Giải phẫu vùng ngực: Da cơ vùng ngực hai bên ngay dưới hõm ức có bầm tụ máu kích thước 13 x 5 cm; gãy 1/3 trên xương ức ngay với bờ dưới xương sườn 2; Khoang lồng ngực khô, dày dịch màng phổi phải và thành ngực; bề mặt phổi nhợt nhạt, mặt cắt phổi có dịch máu; bầm tụ máu trung thất trên diện 10 x 6 cm; bao tim còn nguyên vẹn, trong bao tim có ít dịch màu vàng nhạt, thượng tâm mạc cơ tim rải rác có chấm xuất huyết;

Giải phẫu vùng cổ: Tổ chức cơ vùng cổ cạnh cột sống bầm dập tụ máu diện 10 x 8 cm; bầm tụ máu mặt sau thực quản; trong lòng khí phế quản có ít dịch bọt màu trắng; gãy gần hoàn toàn cột sống cổ qua đốt C3 - C4, bờ mép vết gãy nham nhở, qua vết gãy nhìn thấy đứt, phù nề tủy sống;

Giải phẫu vùng bụng: Da cơ vùng bụng màu thuần nhất, trong khoang ổ bụng có máu không đông, bầm tụ máu mạc nối lớn; mặt sau dưới thùy gan phải có vết vỡ nứt nhu mô gan kích thước 5 x 0,5 cm; bầm tụ máu vùng khớp vùng chậu bên phải, gãy xương khung chậu sát với xương cùng.

Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 170C/KLPY-PC09 ngày 29/4/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: Nguyên nhân chết của chị Nguyễn Thị Tr là đa chấn thương: Chấn thương gãy cột sống cổ, chấn thương bụng kín và gãy khung chậu.

Ngày 27/4/2021, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, Quyết định trưng cầu giám định Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh giám định xác định: chất màu ghi bạc thu tại hiện trường so với mẫu sơn màu ghi bạc thu tại cản trước xe ô tô BKS 29A-746.93; chất màu tím đen thu trên nắp capo xe ô tô BKS 29A-746.93 so với áo dài tay màu tím đen trên người bà Nguyễn Thị M.

Tại Bản kết luận giám định số 66/GĐ HÓA-PC09 ngày 07/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận:

+ Chất màu bạc thu tại hiện trường (ký hiệu A1, A2) là sơn, cùng loại với mẫu sơn màu ghi bạc thu tại cản trước xe ô tô con BKS 29A-746.93 (Ký hiệu M1);

+ Chất màu tím đen (dạng vải sợi) thu trên nắp capo xe ô tô con BKS 29A- 746.93 (Ký hiệu A3) là vải sợi, cùng loại với áo dài tay màu tím đen thu giữ trên người nạn nhân Nguyễn Thị M (Ký hiệu M2).

Ngày 27/4/2021, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, Quyết định trưng cầu giám định Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh giám định dấu vết để lại trên phương tiện xe ô tô BKS 29A-746.93 so với dấu vết để lại tại hiện trường; cơ chế hình thành dấu vết.

Tại Bản kết luận giám định số 188/GĐKT - PC09 ngày 04/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận:

+ Dấu vết trượt xước, bong tróc lớp sơn, lớp bả ma tít dải dác diện (90x1)cm chiều hướng từ trước ra sau tại mặt ngoài cản trước vị trí cách mặt đất 24 cm cách trục bánh trước bên phải 40cm; dấu vết nứt vỡ ốp nhựa biển kiểm soát (39x1)cm gắn phía trước chiều hướng từ trước ra sau; dấu vết khuyết gioăng cao su tại mép dưới ½ kính chắn gió phía trước bên phải; dấu vết chà sát cao su kèm bám dính cỏ cây thực vật màu xanh còn tươi (30x8)cm tại mặt trong bánh lốp bánh trước bên phải; phù hợp với mảnh chất màu ghi xám (2x3)cm thu tại sát mép đường vị trí số (8), mảnh nhựa màu trắng trong (6x3,65)cm, gioăng nhựa màu đen (70x1)cm cách mép đường 1,3m vị trí số (14), dấu vết có hình đường dạp cỏ cây thực vật bề mặt rộng 25cm dài 30,4cm tại dệ đê cách mép đường bên phải 10cm cách cột mốc Km17+800 là 60cm hướng Bồng Lai đi Chi Lăng thuộc địa phận thôn Mai Thôn, xã Chi Lăng số (1) tại hiện trường;

+ Dấu vết trượt mất bụi, móp lõm nắp capo phía trước (125x97)cm lõm sâu 8cm chiều hướng từ trước ra sau, từ trên xuống dưới kèm dấu vết bám dính chất màu tím đen dạng vải sợi (26x2)cm, nứt dập đồng tâm lan tỏa 2/3 kính chắn gió phía trước diện (114x85)cm vị trí cách đất 123cm chiều hướng từ trước ra sau hình thành do va chạm với vật thể bề mặt có tính hấp thụ bụi cao.

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Võ, bị cáo Nguyễn Văn B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.

Đối với xe ô tô BKS 29A - 746.93; 01 mảnh nhựa cao su màu đen kích thước 70 x 1 cm; 01 mảnh nhựa trắng trong kích thước 6 x 3,5 cm. Quá trình điều tra xác định là tài sản của Nguyễn Văn B. Ngày 14/7/2021, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ đã trả lại cho ông Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1962 là người được B ủy quyền (là bác của B). Ông Hồi đã nhận lại tài sản và không có ý kiến gì.

Đối với 01 vòng chun màu đen kích thước 6 x 6 x 5 cm đã qua sử dụng thu giữ tại hiện trường. Quá trình điều tra xác định là của chị Nguyễn Thị Tr. Ngày 03/7/2021, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ đã trả lại cho anh Phan Văn L2, sinh năm 1990 là đại diện gia đình chị Tr, anh Lê nhận lại tài sản và không có ý kiến gì.

Đối với 01 đôi dép màu xanh cỡ 42 kích thước 24 x 10 x 5 cm và 01 mũ vải màu đen kích thước 30 x 30 x 5 cm đã qua sử dụng thu giữ tại hiện trường. Quá trình điều tra xác định là của bà Nguyễn Thị M. Ngày 01/7/2021, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ đã trả lại cho anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1977 là đại diện gia đình bà M, anh Quyền nhận lại tài sản và không có ý kiến gì.

Đối với 01 chiếc dép bên trái màu đen cỡ 43 kích thước 24 x 9 x 6 cm; 01 mũ vải màu xanh kích thước 37 x 37 x 6 cm đã qua sử dụng thu giữ tại hiện trường. Quá trình điều tra xác định là của bà Nguyễn Thị L1. Ngày 03/7/2021, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ đã trả lại cho anh Chu Văn Cương, sinh năm 1966 là đại diện gia đình bà L1, anh Cương nhận lại tài sản và không có ý kiến gì.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi xảy ra vụ việc, Nguyễn Văn B đã tác động gia đình bồi thường tiền mai táng phí, tổn thất tinh thần cho gia đình các nạn nhân Nguyễn Thị L1, Nguyễn Thị M và Nguyễn Thị Tr mỗi gia đình số tiền 150.000.000 đồng. Đại diện gia đình các bị hại đã nhận đủ tiền, không yêu cầu bồi thường gì thêm về trách nhiệm dân sự và có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Văn B.

Với nội dung trên, tại bản cáo trạng số 113/CTr-VKS ngày 07/09/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ đã truy tố Nguyễn Văn B về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 3 Điều 260 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa trong phần tranh tụng, bị cáo B thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Bị cáo cũng tỏ ra vô cùng ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội của mình. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”; đề nghị áp dụng điểm a khoản 3 và khoản 5 Điều 260; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Khoản 1 Điều 54; Điều 38 của Bộ luật hình sự; Xử phạt Nguyễn Văn B từ 04 năm 06 tháng đến 05 năm tù giam, thời hạn tù tính từ ngày 27/04/2021. Phạt bổ sung cấm hành nghề lái xe ô tô và công việc liên quan đến lái xe ô tô đối với bị cáo với thời hạn từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm kể từ thời điểm bị cáo chấp hành xong hình phạt tù.

Về phần trách nhiệm dân sự: Do các bên đã thỏa thuận bồi thường và không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét giải quyết.

Về xử lý vật chứng của vụ án: đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Trả bị cáo B 01 giấy phép lái xe ô tô hạng B2 số 270176021998 mang tên Nguyễn Văn B nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Người đại diện của người bị hại (bà Nguyễn Thị M) là anh Nguyễn Văn Q có mặt không có ý kiến tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn B.

Bị cáo Nguyễn Văn B nhận tội, không có ý kiến gì và không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Quế Võ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Lời khai nhận tội của bị cáo B tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người làm chứng, với biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm phương tiện giao thông. Căn cứ lời khai của bị cáo B, căn cứ biên bản khám nghiệm tử thi, kết luận của cơ quan giám định cũng như các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ để xác định: Khoảng 05 giờ ngày 27/4/2021, B điều khiển xe ô tô con nhãn hiệu Daewoo Lacetti, BKS 29A - 746.93 đi từ thôn Giang Liễu, xã Phương Liễu theo đường tỉnh lộ 279 hướng Bồng Lai - Chi Lăng để về nhà. Khi đi đến Km17+800 đường đê thuộc địa phận thôn Mai Thôn, xã Chi Lăng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, lúc này khoảng 05 giờ 40 phút, B đi tốc độ khoảng 50 km/h, do ngủ gật, không làm chủ được tay lái nên xe ô tô B điều khiển đã đâm vào phía sau bà Nguyễn Thị M, bà Nguyễn Thị L1 và chị Nguyễn Thị Tr đang đi tập thể dụng ở sát mép đường phải theo chiều đi của B. Sau khi gây tai nạn, B đã lái xe dời khỏi hiện trường. Hậu quả: bà L1, bà M tử vong tại chỗ, chị Tr bị tử vong trên đường đi cấp cứu. Như vậy, thấy đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của Nguyễn Văn B phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, tội phạm được quy định tại điểm a khoản 3 Điều 260 Bộ luật hình sự, như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự giao thông đường bộ, xâm phạm đến trật tự công cộng, xâm phạm đến tính mạng của người tham gia giao thông đường bộ. Hành vi phạm tội của bị cáo đã để lại hậu quả rất nghiêm trọng, không những đã làm mất đi tính mạng của 03 người, để lại hậu quả vô cùng to lớn mà thân nhân của các nạn nhân phải gánh chịu. Hành vi phạm tội của bị cáo còn gây nên sự hoang mang, lo lắng cho người dân khi tham gia giao thông trên đường bộ. Bị cáo sau khi gây tai nạn đã tự ý rời khỏi hiện trường do vậy hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm khắc mới có tác dụng riêng và phòng ngừa chung.

Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội đã đến cơ quan Công an đầu thú; bị cáo tác động gia đình tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả cho các gia đình người bị hại và được các gia đình người bị hại viết đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ qui định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

Xem xét, cân nhắc toàn bộ những tình tiết của vụ án thì thấy: Bị cáo phạm tội lần đầu, phạm tội nhưng không có lỗi cố ý đối với hậu quả của hành vi phạm tội mà mình đã gây ra. Bị cáo vì một chút lơ là khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông đã gây tai nạn, gây lên hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Sau khi phạm tội cũng đã rất ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nhân thân rất tốt. Do vậy Hội đồng xét xử thấy rằng chỉ cần có mức hình phạt đủ để răn đe đối với bị cáo, cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp dưới khung hình phạt quy định để bị cáo có cơ hội cải tạo, nhanh chóng hòa nhập xã hội, hòa nhập cộng đồng, tiếp tục trở thành người công dân có ích cho xã hội. Tuy nhiên do bị cáo phạm tội với hậu quả rất nghiêm trọng nên cần áp dụng hình phạt bổ sung, cấm bị cáo lái xe ô tô một thời gian sau khi chấp hành xong hình phạt tù.

Thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt tù theo quy định của pháp luật.

Về phần trách nhiệm bồi thường dân sự: Sau khi xảy ra sự việc phía gia đình bị cáo đã tích cực bồi thường cho gia đình những người bị hại để khắc phục hậu quả xảy ra. Đại diện các gia đình bị hại cũng đã thống nhất việc bồi thường và không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

Về xử lý vật chứng: đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Trả bị cáo 01 giấy phép lái xe ô tô hạng B2 số 270176021998 mang tên Nguyễn Văn B nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Áp dụng điểm a khoản 3 và khoản 5 Điều 260; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 136, Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn B 05 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/04/2021. Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án. Phạt bổ sung: cấm bị cáo Nguyễn Văn B hành nghề lái xe ô tô trong thời hạn 02 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.

Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét giải quyết do gia đình bị cáo và những người bị hại đã thỏa thuận xong và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về xử lý vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Trả bị cáo 01 bằng lái xe hạng B2 số 270176021998 do Sở Giao thông Vận tải tỉnh Bắc Ninh cấp ngày 26/12/2017 mang tên Nguyễn Văn B nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/09/2021 giữa Công an huyện Quế Võ với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Võ).

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn B phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, Người đại diện hợp pháp của người bị hại, Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người đại diện hợp pháp của người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hoặc niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

372
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 144/2021/HSST ngày 27/09/2021 về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:144/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;