Bản án 144/2020/HS-PT ngày 30/12/2020 về tội tàng trữ hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 144/2020/HS-PT NGÀY 30/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Ngày 30 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 119/2020/TLPT-HS ngày 10/11/2020 đối với các bị cáo Nguyễn Đăng M1, Nguyễn Đăng M2 do có kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Đăng M1, Nguyễn Đăng M2 đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 48/2020/HS-ST ngày 29/09/2020 của Tòa án nhân dân huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Nguyễn Đăng M1 - Sinh ngày 22 tháng 5 năm 1978 tại huyện L, tỉnh Quảng Bình; Nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện L, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đăng H (đã chết) và bà Võ Thị T (đã chết); có vợ là chị Phạm Thị C sinh năm 1979 và có 04 đứa con (đứa lớn nhất sinh 2000, nhỏ nhất sinh năm 2017); tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/12/2019 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Bình. Có mặt tại phiên toà.

2. Nguyễn Đăng M2 - Sinh ngày 22 tháng 11 năm 2000 tại huyện L, tỉnh Quảng Bình; Nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện L, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đăng M1 (bị cáo trong vụ án) và bà Phạm Thị C; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm gian từ ngày 06/12/2019 đến ngày 03/4/2020 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh. Có mặt tại phiên toà.

Trong vụ án này còn có bị cáo Nguyễn Đăng M3, Nguyễn Đăng T và 13 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án nhưng không có kháng cáo, không liên quan đến nội dung kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Đăng M1, Nguyễn Đăng M2 nên Toà án không triệu tập tham gia phiên toà phúc thẩm.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 01/12/2019, Nguyễn Đăng M1 điện thoại bảo Nguyễn Đăng M3 vận chuyển pháo từ tỉnh Quảng Trị ra tỉnh Quảng Bình cho M1. Khoảng 23 giờ cùng ngày, M3 trực tiếp điều khiển xe ô tô mang biển kiểm soát 78K - XXX (loại xe đông lạnh) đến huyện T, tỉnh Quảng Trị để bốc pháo hai bên lề đường liên xã lên xe ô tô theo sự hướng dẫn qua điện thoại của người bán pháo, số lượng pháo khoảng 13 thùng. Trên đường chở pháo ra tỉnh Quảng Bình, M1 lái xe ô tô mang biển kiểm soát 73A-HHH chạy trước cảnh giới cơ quan chức năng, còn M3 lái xe chạy theo sau đến nhà Nguyễn Đăng T ở thôn T, xã H, huyện L, tỉnh Quảng Bình, M3 điện thoại Nguyễn Đăng M2 đến cùng Nguyễn Đăng M1 bốc xếp pháo vào trong nhà Thoả cất giấu. Chuyến thứ hai tương tự như chuyến thứ nhất, vào ngày 03/12/2019 Nguyễn Đăng M3 sử dụng xe ô tô mang biển kiểm soát 78K-XXX chở khoảng 13 thùng pháo cho Nguyễn Đăng M1 từ tỉnh Quảng Trị ra đến nhà Nguyễn Đăng T. Nguyễn Đăng M2 cùng Nguyễn Đăng M3 bốc pháo vào nhà T cất giấu.

Khong 10 giờ ngày 04/12/2019, Nguyễn Đăng M3 lái xe ô tô mang biển kiểm soát 73A-HHH chở Nguyễn Đăng M1 đến nhà Nguyễn Đăng T bốc 03 thùng pháo chở về nhà M1 ở thôn T, xã H, huyện L, M1 cùng với Nguyễn Đăng M2 bốc 03 thùng pháo vào nhà cất giấu. Sáng ngày 06/12/2019, thấy Công an đến nhà, Nguyễn Đăng M2 mang 03 thùng pháo đem phi tang thì bị phát hiện. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Bình đã tiến hành khám xét khẩn cấp tại nhà ở của Nguyễn Đăng M1 phát hiện 03 thùng giấy carton bên trong đựng pháo, tổng khối lượng 03 thùng pháo là 104,2kg. Khám xét tại nhà ở của Nguyễn Đăng T phát hiện 22 thùng giấy carton bên trong đựng pháo các loại, tổng khối lượng là 698,5kg. Trong quá trình điều tra Nguyễn Đăng M1 khai nhận đã vận chuyển pháo thuê cho một người không quen biết ở tỉnh Quảng Trị. Kết luận giám định số:

1019/PC 09 (GĐ) ngày 13/12/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình, kết luận: Các mẫu vật Cơ quan điều tra gửi giám định đều là pháo, có đặc tính của pháo nổ, có chứa thuốc pháo và khi đốt có gây tiếng nổ, bao gồm: Mẫu ký hiệu A1 có khối lượng 64,4 kg; mẫu ký hiệu A2 có khối lượng 4,2 kg; tổng khối lượng các mẫu ký hiệu A3, A4, A5, A6, A7, A8 là 698,5 kg; mẫu ký hiệu A9 có khối lượng 104,2 kg.

Cáo trạng số: 373/VKS - P3 ngày 16/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình đã truy tố các bị cáo Nguyễn Đăng M1, Nguyễn Đăng M2, Nguyễn Đăng T về tội “Tàng trữ hàng cấm”, Nguyễn Đăng M3 về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm c khoản 3 Điều 191 Bộ luật Hình sự.

- Bản án hình sự sơ thẩm số: 48/2020/HS-ST ngày 29 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình đã tuyên bố các bị cáo Nguyễn Đăng M1, Nguyễn Đăng M2 và Nguyễn Đăng T phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”, bị cáo Nguyễn Đăng M3 phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

Áp dụng điểm c khoản 3, khoản 4 Điều 191; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình xử phạt bị cáo Nguyễn Đăng M1 06 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 06/12/2019; Phạt bổ sung Nguyễn Đăng M1 15.000.000 đồng;

Áp dụng điểm c khoản 3, khoản 4 Điều 191; điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình xử phạt Nguyễn Đăng M2 04 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ đi thời gian tạm giam trước từ ngày 06/12/2019 đến ngày 03/4/2020; Phạt bổ sung Nguyễn Đăng M2 15.000.000 đồng;

Áp dụng điểm c khoản 3, khoản 4 Điều 191; điểm r, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự xử phạt Nguyễn Đăng M3 04 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án; Phạt bổ sung Nguyễn Đăng M3 15.000.000 đồng;

Áp dụng điểm c khoản 3, khoản 4 Điều 191; các điểm s, x khoản 1 Điều 51; Điều 54; Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt Nguyễn Đăng T 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm; Phạt bổ sung Nguyễn Đăng T 15.000.000 đồng;

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên nghĩa vụ của người được hưởng án treo; tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 01/10/2020, bị cáo Nguyễn Đăng M1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, với lý do: Bị cáo là lao động chính trong gia đình, bị cáo đã ăn năn hối cải và có bố mẹ là người có công với cách mạng.

Ngày 12/10/2020, bị cáo Nguyễn Đăng M2 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, với lý do: Hoàn cảnh gia đình khó khăn; bố Nguyễn Đăng M1 đồng thời là bị cáo trong vụ án này, bản thân bị cáo phải trực tiếp lao động để nuôi mẹ già thường xuyên ốm đau và 03 đứa em còn nhỏ đang tuổi ăn học.

-Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo Nguyễn Đăng M1, Nguyễn Đăng M2 khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung của bản án sơ thẩm. Các bị cáo không kháng cáo về tội danh mà chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù để sớm trở về đoàn tụ gia đình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tham gia phiên toà phúc thẩm đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đăng M1, chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đăng M2 để giảm cho bị cáo M2 từ 3 đến 6 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Đăng M1 và bị cáo Nguyễn Đăng M2 tại phiên tòa phúc thẩm hoàn toàn phù hợp với nhau, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; phù hợp với nội dung của bản án sơ thẩm. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Vào các ngày 01/12/2019 và 03/12/2019, bị cáo Nguyễn Đăng M1 đã điện thoại bảo Nguyễn Đăng M3 chở pháo nổ từ tỉnh Quảng Trị về tỉnh Quảng Bình cất giấu tại nhà Nguyễn Đăng T. Nguyễn Đăng M3 đã trực tiếp điều khiển xe ô tô chở pháo nổ theo sự hướng dẫn của Nguyễn Đăng M1. Các bị cáo Nguyễn Đăng M1, Nguyễn Đăng M2 và Nguyễn Đăng T tham gia bốc xếp phảo nổ cất giấu trong nhà của Thỏa và nhà của M1. Tổng số pháo nổ có khối lượng 806,9kg. Do đó, bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Lệ Thuỷ tuyên bố bị cáo Nguyễn Đăng M1, Nguyễn Đăng M2 và Nguyễn Đăng T phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”; Nguyễn Đăng M3 phạm tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm c khoản 3 Điều 191 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2]. Các bị cáo Nguyễn Đăng M1, Nguyễn Đăng M2, Nguyễn Đăng M3 và Nguyễn Đăng T đều nhận thức được việc Nhà nước cấm kinh doanh, lưu hành, tàng trữ pháo nổ, nhưng vì động cơ hám lợi nên đã cố tình thực hiện hành vi vận chuyển, tàng trữ 806,9 kg pháo nổ. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến chế độ quản lý đối với các loại hàng hóa mà nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành; gây mất ổn định tình hình trật tự trị an tại địa phương. Do đó cần xử phạt các bị cáo mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội mà các bị cáo đã gây ra.

[3]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù của bị cáo Nguyễn Đăng M1, Nguyễn Đăng M2, Hội đồng xét xử thấy rằng: Trong vụ án này bị cáo Nguyễn Đăng M1 là người đã trực tiếp tìm nguồn hàng “Pháo nổ”, trực tiếp liên hệ, cử người đi vận chuyển, bốc vác, cất giấu trong nhà của Thỏa, sau đó chuyển sang nhà M1 một phần để cất giấu. Vì vậy, bị cáo M1 phải chịu trách nhiệm chính và bị xử phạt mức án cao nhất là đúng quy định.

Trong thời gian hai ngày (Ngày 01/12/2019 và ngày 03/12/2019) các bị cáo đã vận chuyển, tàng trữ tổng khối lượng 806,9kg “Pháo nổ”. Tại khoản 3 Điều 191 Bộ luật hình sự quy định: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 đến 10 năm:…; c)Pháo nổ 120 kilôgam trở lên;”. Như vậy với khối lượng 806,9 kilôgam pháo nổ mà các bị cáo đã vận chuyển, tàng trữ ở trên thì việc xử phạt bị cáo Nguyễn Đăng M1 06 năm 06 tháng tù là đã giảm nhẹ nhiều cho bị cáo. Do đó, không thể chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Đăng M1.

Đối với bị cáo Nguyễn Đăng M2 (Là con trai của bị cáo Nguyễn Đăng M1) tham gia thực hiện hành vi phạm tội với tư cách đồng phạm, bị cáo đã tham gia tích cực; khi phát hiện cơ quan chức năng đến kiểm tra thì M2 đã có hành động mang pháo nổ đi phi tang nhằm che dấu hành vi phạm tội. Bản án sơ thẩm đã xem xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng để xử mức án 04 năm tù là phù hợp. Tuy nhiên, xét thấy tại giai đoạn phúc thẩm bị cáo M2 có đơn trình bày hoàn cảnh khó khăn; bị cáo đã có công cùng chính quyền địa phương cứu trợ bão lụt trong đợt lũ lịch sử vào tháng 10/2020 vừa qua tại huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình (Có xác nhận của chính quyền địa phương). Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ mới theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm cho bị cáo một phần hình phạt là phù hợp với chính sách khoan hồng của pháp luật.

[4]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Đăng M1 kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm; bị cáo Nguyễn Đăng M2 kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự,

1. Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Đăng M1; chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Đăng M2, sửa bản án sơ thẩm như sau:

- Áp dụng điểm c khoản 3, khoản 4 Điều 191; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Đăng M1 06 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ hàng cấm”. Thời hạn tù tính từ ngày Nguyễn Đăng M1 bị bắt tạm giam (Ngày 06/12/2019).

Phạt bổ sung Nguyễn Đăng M1 số tiền 15.000.000 (Mười lăm triệu) đồng.

- Áp dụng điểm c khoản 3, khoản 4 Điều 191; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Đăng M2 03 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ hàng cấm”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo Nguyễn Đăng M2 đi thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 06/12/2019 đến ngày 03/4/2020.

Phạt bổ sung Nguyễn Đăng M2 số tiền 15.000.000 (Mười lăm triệu) đồng.

2. Bị cáo Nguyễn Đăng M1 phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm;

bị cáo Nguyễn Đăng M2 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (30/12/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

320
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 144/2020/HS-PT ngày 30/12/2020 về tội tàng trữ hàng cấm

Số hiệu:144/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;