Bản án 143/2020/HS-ST ngày 26/03/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 143/2020/HS-ST NGÀY 26/03/2020 VỀ TỘI TÀNG T,RỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 26 tháng 3 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 90/2020/TLST-HS ngày 09 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 133/2020/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 3 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn L, sinh năm 1991, tại Sóc T.

Nơi cư trú: ấp Mỹ Lợi C, xã Mỹ T, huyện Mỹ T, tỉnh Sóc T; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không: Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phạm Thanh G, sinh năm 1961 và bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1962; Vợ: Nguyễn Thị Hồng H, sinh năm 1993 (đã ly hôn); Có 01 con sinh năm 2013; Tiền án; tiền sự: Không; Bị bắt: Ngày 27/10/2019 (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Văn L là người sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 15 giờ, 20 phút ngày 27/10/2019, L đi đến khu vực cầu vượt Tâm An Hội thuộc huyện Của C, TP. Hồ Chí M gặp đối tượng tên C (không rõ lai lịch) mua 01 gói ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 700.000đ về để sử dụng. Khoảng 20 giờ cùng ngày, L đem gói ma túy đến thuê phòng số 110 nhà nghỉ Thành H thuộc tổ 7, khu phố Thiên Bình, phường Tam P, TP. Biên Hòa và cất giấu trong hộp thiếc để dưới tấm nệm trên giường. Đến khoảng 22 giờ 15 phút, L bị Công an phường Tam Phước kiểm tra phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Vật chứng thu giữ:

- 01 (một) gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng đã được niêm phong có chữ ký của Phạm Văn L và dấu mộc của Công an phường Tam Phước, TP. Biên Hòa.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, số Imei 356803087989/89/70 của Linh không sử dụng vào việc phạm tội.

Tại bản kết luận giám định số 1365/PC09-GĐMT ngày 05/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: “Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng là 1,8543 gam, loại Methamphetamine.

Đối với đối tượng tên C (không rõ lai lịch) có hành vi bán trái phép chất ma túy cho L. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số 101/CT-VKS-BH ngày 11/02/2020 của Viện kiểm Sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố bị cáo Phạm Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa phát biểu luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn L đã khai nhận vào khoảng 22 giờ 15 phút ngày 27/10/2019 tại phòng số 110 nhà nghỉ Thành H thuộc tổ 7, khu phố Thiên B, phường Tam P, TP. Biên Hòa; bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy tổng hợp (hàng đá) thì bị Công an phường Tam Phước phát hiện bắt quả tang.

Tại bản kết luận giám định số 1365/PC09-GĐMT ngày 05/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: “Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng là 1,8543 gam, loại Methamphetamine.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Do đó, đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Phạm Văn L phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố và viện dẫn.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; bản thân bị cáo cũng là đối tượng nghiện ma túy tổng hợp (hàng đá) nên để thỏa mãn cơn nghiện bị cáo đã có hành vi mua ma túy về để sử dụng sau đó bị phát hiện bắt quả tang; hành vi của bị cáo còn gây mất trật tự trị an tại địa phương, là nguyên nhân gây ra nhiều loại tệ nạn xã hội khác; qua đó, thể hiện bị cáo là đối tượng liều lĩnh, có thái độ xem thường pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo là rất kém. Do vậy, đối với bị cáo cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra nhằm mục đích giáo dục cải tạo và răn đe phòng ngừa tội phạm nói chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; chưa có tiền án, tiền sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử có xem xét giảm nhẹ một phần mức hình phạt cho bị cáo.

Đối với đối tượng tên C (không rõ lai lịch) có hành vi bán trái phép chất ma túy cho bị cáo. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

[5] Về xử lý vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong số 1365 ngày 05/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai).

+ Trả lại cho bị cáo: 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, số Imei 356803087989/89/70 do không liên quan đến hành vi phạm tội.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/3/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai).

[6] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 2 Điều 106; Điều 136, 331, 332, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, giảm, miễn, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn L 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/10/2019.

2. Về xử lý vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong số 1365 ngày 05/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai).

+ Trả lại cho bị cáo: 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, số Imei 356803087989/89/70.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/3/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Phạm Văn L phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 143/2020/HS-ST ngày 26/03/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:143/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;