Bản án 143/2020/HS-ST ngày 09/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ- TỈNH HÀ NAM

 BẢN ÁN 143/2020/HS-ST NGÀY 09/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 09 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:140/TLST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 149/2020/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Dương Văn C, sinh năm 1984; tại Hà Nam; nơi cư trú: Xóm 5, thôn D, xã Đại C, huyện K, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa:

7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Văn L (đã chết) và bà Dương Thị M, sinh năm 1952; vợ: Nguyễn Thị A, sinh năm 1985; con: Có một con sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 29/11/2004 Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sơn La xử phạt 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 24/01/2011 Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hà Nam xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/4/2017). Bị bắt ạm giữ ngày 08/9/2020 đến ngày 14/9/2020 chuyển tạm giam đến nay. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị A, sinh năm 1985;

Trú tại: Thôn D xã Đại C, huyện K, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

- Người làm chứng:

+ Ông Đinh Văn Q, sinh năm 1965. Vắng mặt.

+ Ông Nguyễn Tiến L, sinh năm 1973. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 7 giờ ngày 08/9/2020 C đi xe mô tô từ nhà đến Trung tâm y tế huyện K ở tổ 3, thị trấn Q để uống thuốc Methadone. Khi tới xã T, huyện K thì gặp bạn nghiện tên T, khoảng 23 tuổi (không biết lai lịch, địa chỉ cụ thể). T rủ C đi mua ma túy để sử dụng, C đồng ý và điều khiển xe mô tô chở T đến khu vực tổ 8, phường L, thành phố P gặp một người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) để mua ma túy. T đi mua thuốc, C và người đàn ông đứng nói chuyện, người đàn ông đưa cho C 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng để C đưa cho T, biết bên trong có ma túy nên C cầm bao thuốc đi ra đưa cho T, C đang đi thì bị lực lượng Công an phường L, thành phố P thấy có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe để kiểm tra. C dừng xe và tự giác giao nộp cho lực lượng Công an 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong có 01 gói giấy bạc màu vàng chứa chất bột màu trắng dang cục.

Lực lượng Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Dương Văn C, thu giữ vật chứng tài sản gồm: 01 gói giấy bạc màu vàng, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu M1; 01 bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Janus BKS 90B2-506.85 kèm 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy mang tên Nguyễn Thị A; 01 giấy phép lái xe hạng A1, 01 chứng minh nhân dân đều mang tên Dương Văn C.

Thực hiện lệnh khám xét đối với chỗ ở của bị cáo tại thôn D, xã Đại C, huyện K, tỉnh Hà Nam. Quá trình khám xét không thu giữ tài sản đồ vật gì liên quan đến vụ án.

Tại bản kết luận giám định số 176/PC09-MT ngày 11/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận:“Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,129g, loại heroine”.

- Bản cáo trạng số 142/CT-VKSPL ngày 05/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý truy tố Dương Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017 (sau đây viết là Bộ luật Hình sự).

- Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như đã nêu trong bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự. Đề xuất mức hình phạt đối với bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù. Hình phạt bổ sung: xét mục đích phạm tội của bị cáo không trục lợi do vậy không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại Điều 35, khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Về xử lý vật chứng: áp sụng điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số heroine hoàn trả sau giám định cùng bao gói và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng. Trả lại bị cáo 01 giấy phép lái xe hạng A1 và 01 chứng minh nhân dân đều mang tên Dương Văn C. Trả lại chị Nguyễn Thị A 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Janus biển kiểm soát 90B2- 506.85 và 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô xe máy mang tên Nguyễn Thị A.

- Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố, không tranh luận và không có lời tự bào chữa chỉ xin Hội đồng xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã có lời khai rõ ràng không mâu thuẫn. Vậy Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt những người trên là đúng pháp luật.

[3] Đánh giá về tội danh: Đối chiếu lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra. Hội đồng xét xử thấy cơ bản phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người làm chứng về thời gian, địa điểm, diễn biến vụ án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, bản kết luận giám định của cơ quan chuyên môn cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được cơ quan điều tra thu thập theo trình tự luật định, phản ánh đúng sự thật khách quan của vụ án.

Như vậy, có đủ chứng cứ buộc tội: Khoảng 7 giờ 35 phút ngày 08/9/2020 tại tổ 8, phường Lê Hồng Phong, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, Dương Văn C đang cất giấu trái phép 0,129g chất ma túy loại Heroine mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Công an phường L, thành phố P phát hiện bắt giữ. Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối bị cáo: Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân rất xấu đã bị xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy” sau khi mãn hạn tù trở về địa phương bị cáo không lấy đó làm bài học để tu sửa bản thân mà tiếp tục phạm tội nghiêm trọng về ma túy thể hiện bị cáo là người coi thường, bất chấp pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình nên Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt chính, hình phạt bổ sung:

- Hình phạt chính: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh trật tự an toàn xã hội. Hành vi đó còn là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm nguy hiểm khác trong cộng đồng. Hội đồng xét xử cần có mức án phạt tù nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm bị cáo đã thực hiện để giáo dục, răn đe và nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi lượng hình có xem xét đến các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo để ra một mức án cho phù hợp.

Hình phạt bổ sung: xét mục đích phạm tội của bị cáo không nhằm thu lời bất chính nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ pháp luật.

[6] Về tình tiết khác: Đối với người đàn ông tên T, bị cáo khai là bạn nghiện rủ bị cáo đi mua ma túy để sử dụng và người đàn ông đã đưa ma túy cho bị cáo. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý đã phối hợp với Công an xã T, huyện K, tỉnh Hà Nam và Công an phường L, thành phố P xác minh nhưng không xác định được nhân thân, lai lịch của hai đối tượng trên. Ngoài lời khai của bị cáo không còn tài liệu, chứng cứ nào chứng minh người đưa ma túy cho bị cáo và người tên T nên chưa đủ căn cứ để xử lý trong vụ án.

[7] Về vật chứng và xử lý vật chứng đã thu giữ:

- Toàn bộ số Heroine cùng bao gói đã thu giữ trong vụ án cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vằng không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 giấy phép lái xe hạng A1, 01 giấy chứng minh nhân dân đều mang tên Dương Văn C là giấy tờ hợp pháp của bị cáo không liên quan đến vụ án cần trả lại cho bị cáo.

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Janus Biển kiểm soát 90B2-506.85 và 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy thuộc quyền sở hữu hợp pháp của chị Nguyễn Thị A. Chị A không biết bị cáo dùng xe và giấy tờ trên vào việc phạm tội do đó trả lại chị Nguyễn Thị A chiếc xe và chứng nhận đăng ký xe mô tô là phù hợp với quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47, Điều 50 Bộ luật Hình sự;

- Căn cứ các Điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố bị cáo Dương Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt: Bị cáo Dương Văn C 36 (ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 08/9/2020.

2/ Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã niêm phong dán kín mặt trước ghi mẫu vật hoàn trả M1, số 176/PC-MT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

- Trả lại bị cáo 01 giấy phép lái xe số Z385303 và 01 chứng minh nhân dân số 168082356 đều mang tên Dương Văn C.

- Trả lại chị Nguyễn Thị A 01 chiếc xe máy biển kiểm soát 90B2-506.85 số máy E3Y8E028972, số khung C820HY028972 và 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 085954 mang tên Nguyễn Thị An.

Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam với Chi cục thi hành án dân sự, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam ngày 06/11/2020.

3/ Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Dương Văn C phải nộp 200.000đ.

Án xử công khai sơ thẩm bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 143/2020/HS-ST ngày 09/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:143/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;