Bản án 1424/2019/HNGĐ-ST ngày 16/10/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1424/2019/HNGĐ-ST NGÀY 16/10/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 16 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 376/2019/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 7 năm 2019, về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 4832/2019/QĐST-HNGĐ ngày 02 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Trịnh Trần Bách T, sinh năm 1986 (vắng mặt). Địa chỉ: Đường Q, Phường P, quận B, Thành phố H.

Đại diện ủy quyền của bà Trịnh Trần Bách T: Bà Nguyễn Xuân Ánh T, sinh năm 1994; địa chỉ: xã Đông H, Huyện B, Tỉnh Đ(vắng mặt).

Bị đơn: Ông Nguyễn Đình C, sinh năm 1984 (vắng mặt).

Địa chỉ: Aleja Krakowska 291a.m28.02-133, Warszawa, Poland.

Đại diện ủy quyền của ông Nguyễn Đình C: Bà Lê Thị Bích T, sinh năm 1996:

địa chỉ: Đường P, Phường T, Quận N, Thành phố H(vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 19/6/2019, và bản tự khai, nguyên đơn bà Trịnh Trần Bách T trình bày:

Bà và ông Nguyễn Đình C tự nguyện kết hôn vào năm 2014 theo giấy chứng nhận kết hôn quyển số 01/2014 ngày 31/12/2014 do Ủy ban nhân dân Phường 3, Thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị cấp.

Sau khi kết hôn bà và ông C sống với nhau được 02 năm tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trong quá trình chung sống hai bên thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, cả hai bên không thể chia sẻ và không còn sự tin tưởng và tôn trọng nhau dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Đến năm 2017 ông C xuất cảnh sang Ba Lan sinh sống và làm việc, ông C không về Việt Nam thăm bà và cũng không liên lạc với bà, từ năm 2017 đến nay bà và ông C đã sống ly thân không còn quan tâm đến đời sống của nhau. Do không chung sống với nhau trong một thời gian dài nên bà và ông C không có thời gian quan tâm, chăm sóc, vun vén hạnh phúc gia đình dẫn đến tình cảm vợ chồng phai nhạt. Nay bà nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Đình C để có điều kiện ổn định cuộc sống.

Về con chung: Bà Trịnh Trần Bách T khai bà và ông Nguyễn Đình C có một con chung tên Nguyễn Trịnh N, sinh ngày 15/7/2015 hiện đang sống cùng bà tại Việt Nam, sau khi ly hôn bà yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung cho đến khi trưởng thành và không yêu cầu ông Nguyễn Đình C cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung : Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại bản tự khai của bị đơn ông Nguyễn Đình C đề ngày 09/9/2019 được Tổng lãnh sứ quán nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Cộng Hòa Ba Lan chứng thực chữ ký ngày 09/9/2019 có nội dung như sau: Ông và bà Trịnh Trần Bách T tự nguyện kết hôn vào năm 2014 theo giấy chứng nhận kết hôn quyển số 01/2014 ngày 31/12/2014 do Ủy ban nhân dân Phường 3, Thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị cấp.

Sau khi kết hôn ông và bà T sinh sống tại Việt Nam được 02 năm, đến năm 2017 ông sang Bà Lan sinh sống và làm việc. Qúa trình chung sống tại Việt Nam ông và bà T xảy ra nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống. Từ năm 2017 đến nay ông và bà T đã sống ly thân, hai bên không còn liên lạc và cũng không còn chung sống với nhau. Hiện tại ông đang sống tại Ba Lan, còn bà T đang sống tại Việt Nam. Nay ông nhận thấy hiện nay tình cảm vợ chồng không hàn gắn được, mục đích hôn nhân không đạt đđược. Ông được biết bà Trịnh Trần Bách T yêu cầu ly hôn với ông Về quan hệ hôn nhân: Ông đồng ý ly hôn với bà Trịnh Trần Bách T.

Về con chung: Có một con chung tên Nguyễn Trịnh N, sinh ngày 15/7/2015 hiện đang sống cùng bà T tại Việt Nam, sau khi ly hôn ông đồng ý giao con chung cho bà T tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành. Ông không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung : Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại phiên tòa sơ thẩm : Nguyên đơn bà Trịnh Trần Bách T, bị đơn ông Nguyễn Đình C đều có đơn xin xét xử vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết :

Nguyên đơn bà Trịnh Trần Bách T đang cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, bị đơn ông Nguyễn Đình C đang cư trú tại Ba Lan, giữa đôi bên có tranh chấp về hôn nhân và gia đình nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam theo quy định tại Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 37; điểm a khoản 2 Điều 38 ; Điều 464 ; Điều 465 ; điểm g khoản 1 Điều 469 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 122 ; Điều 123 ; Điều 124 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Về sự có mặt của các đương sự tại phiên tòa sơ thẩm :

Nguyên đơn bà Trịnh Trần Bách T, bị đơn ông Nguyễn Đình C đều có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ quy định tại Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

Tòa án không tiến hành thu thập chứng cứ nên vụ án không thuộc trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên tòa sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Về nội dung :

[1] Về quan hệ hôn nhân:

Nguyên đơn bà Trịnh Trần Bách T, bị đơn ông Nguyễn Đình C tự nguyện kết hôn vào năm 2014 theo giấy chứng nhận kết hôn quyển số 01/2014 ngày 31/12/2014 do Ủy ban nhân dân Phường 3, Thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị, Việt Nam cấp. Như vậy hôn nhân giữa đôi bên là hợp pháp kể từ thời điểm đăng ký kết hôn.

Theo lời khai của đôi bên thì sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại Việt Nam được 02 năm. Đến năm 2017 ông Nguyễn Đình C sang Ba Lan sinh sống và làm việc. Do thiếu sự quan tâm lẫn nhau, thiếu sự tôn trọng và tin tưởng, quan điểm và suy nghĩ khác biệt nên tình cảm vợ chồng dần lạnh nhạt, không thể hàn gắn tình cảm. Bà Trịnh Trần Bách T xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục cuộc hôn nhân được nữa và có yêu cầu được ly hôn. Ý kiến của ông Nguyễn Đình C cũng đồng ý ly hôn theo yêu cầu của bà Trịnh Trần Bách T.

Xét, về tình nghĩa vợ chồng phải xuất phát từ cả hai phía cùng có nghĩa vụ yêu thương, tôn trọng và cùng có trách nhiệm quan tâm, chăm sóc giúp đỡ nhau.

Thực tế vợ chồng đã không còn sống cùng nhau, không tạo được điều kiện hàn gắn tình cảm vợ chồng để tiếp tục cuộc hôn nhân hạnh phúc. Do đó, nếu tiếp tục kéo dài quan hệ hôn nhân nói trên thì mục đích của hôn nhân cũng không thể đạt được. Việc bà Trịnh Trần Bách T yêu cầu ly hôn là có căn cứ và phù hợp với pháp luật, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2] Về con chung : Bà Trịnh Trần Bách T và ông Nguyễn Đình C cùng xác nhận có 01 con chung tên Nguyễn Trịnh N, sinh ngày 15/7/2015 hiện đang sống cùng bà T tại Việt Nam. Ông Nguyễn Đình C đồng ý giao con chung Nguyễn Trịnh N, sinh ngày 15/7/2015 cho bà Trịnh Trần Bách T tiếp tục nuôi dưỡng, bà T không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con chung.

[3] Về tài sản chung và nợ chung : Bà Trịnh Trần Bách T và ông Nguyễn Đình C đều khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 đồng nguyên đơn phải chịu.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; khoản 1 Điều 37; khoản 2 Điều 38; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 228; khoản 1 Điều 273; Điều 464; điểm d khoản 1 Điều 469; khoản 2 Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015:

Căn cứ khoản 1 Điều 51 ; Điều 53 ; Điều 54; khoản 1 Điều 56 ; Điều 57 ; Điều 81, Điều 82, Điều 83; Điều 84; Điều 122; Điều 123; Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:

Căn cứ Nghị quyết 326/2016.UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 về quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự 2008 ; Tuyên xử :

Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Trịnh Trần Bách T.

1/ Quan hệ hôn nhân: Bà Trịnh Trần Bách T được ly hôn với ông Nguyễn Đình C.

Giấy chứng nhận kết hôn quyển số 01/2014 cấp ngày 31/12/2014 tại Ủy ban nhân dân Phường 3, Thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị không còn giá trị pháp lý kể tự ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2/ Về con chung :

Giao con chung là Nguyễn Trịnh N, sinh ngày 15/7/2015 cho bà Trịnh Trần Bách T nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi trưởng thành. Bà Trịnh Trần Bách T không yêu cầu ông Nguyễn Đình C cấp dưỡng nuôi con chung. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với Nguyễn Đình C.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ này, yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được pháp luật quy định, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

3/ Về tài sản chung và nợ chung : Bà Trịnh Trần Bách T và ông Nguyễn Đình C khai không có, Hội đồng xét xử không xem xét.

4/ Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Trịnh Trần Bách T phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền bà T đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số AA/2018/0013236 ngày 11/7/2019 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Trịnh Trần Bách T đã nộp đủ án phí.

4/ Án xử công khai vắng mặt nguyên đơn bà Trịnh Trần Bách T và bị đơn ông Nguyễn Đình C; bà Trịnh Trần Bách T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ. Ông Nguyễn Đình C được quyền kháng cáo trong hạn 01 (một) tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

5/ Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 1424/2019/HNGĐ-ST ngày 16/10/2019 về ly hôn

Số hiệu:1424/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;