Bản án 142/2020/HS-ST ngày 16/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYN N, TỈNH ĐNG NAI

BẢN ÁN 142/2020/HS-ST NGÀY 16/12/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Đồng Nai, mở phiên tòa để xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 190/2020/TLST-HS, ngày 02 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 170/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Trương Thi Thùy T, sinh ngày 09 tháng 01 năm 2000 tại Đ;

Nơi cư trú: Ấp P, xã Đ, huyện N, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trương Văn B, sinh năm 1968 và bà Đào Thị Thùy L, sinh năm 1971, bị cáo chưa có chồng, có 01 người con sinh năm 2017;

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 04 tháng 10 năm 2019 đến ngày 12 tháng 10 năm 2019 được tại ngoại điều tra.

Bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ ngày 02/10/2019, Trần Văn H sử dụng điện thoại OPPO có gắn sim số 033xxxx359 để gọi điện thoại cho D hỏi mua 01 gói ma túy với giá 1.000.000 đồng. Sau đó, D sử dụng điện thoại Nokia có gắn sim số 093xxxx343 để gọi điện đến máy điện thoại Nokia màu đen có gắn sim 077xxxx742 của S nói T đến gặp T để lấy ma túy đi giao cho H, T đồng ý và điều khiển xe mô tô biển số 60C1-XXX.71 đến gặp D, tại đây D đưa cho T 01 gói ma túy để T đi đến ngã 3 N thuộc xã L, huyện L đưa ma túy cho H và lấy 1.000.000 đồng. Sau khi T giao ma túy cho H và lấy tiền xong, T điều khiển xe mô tô biển số 60C1-XXX.71 về gặp D đưa tiền bán ma túy cho D và được D trả tiền công 100.000 đồng.

Sau khi Trần Văn H mua ma túy xong, H đem gói ma túy về phòng trọ tại ấp 2, xã L, huyện N phân thành 11 tép, H lấy 01 tép sử dụng, 10 tép ma túy còn lại H cất giấu vào trong vỏ gói thuốc lá JET và cất giữ trong người với mục đích bán cho các con nghiện kiếm lời.

Đến khoảng 11 giờ 00 phút ngày 03/10/2019, H đưa cho Trương Thị Thùy T đang ở trọ cùng với H cất giữ giùm ma túy, khi nào có con nghiện mua ma túy thì T đưa ma túy cho H để đi bán. Đến khoảng 17 giờ 30 phút, T đưa lại ma túy cho H cất giữ rồi cả hai ra quán cà phê gần nhà nghỉ 3 Sao thuộc xã L, huyện N để uống cà phê. Lúc này, có 3 người nghiện ma túy gọi điện thoại cho H để hỏi mua ma túy, gồm có: L (không rõ họ, tên, địa chỉ) gọi điện cho H mua 01 tép với giá 200.000 đồng, H đồng ý và gọi điện cho K (không rõ họ, tên, địa chỉ) đến gặp H lấy ma túy để đi giao bán cho L và mang tiền về cho H 170.000 đồng, còn số tiền 30.000 đồng K đã đỗ xăng; L (không rõ họ, tên, địa chỉ) hỏi H mua 01 tép ma túy với giá 200.000 đồng, H đồng ý và nhờ B (không rõ họ, tên, địa chỉ) đi giao ma túy cho L; 01 người đàn ông chồng của T (không rõ họ, tên, địa chỉ) hỏi H mua 01 tép ma túy với giá 200.000 đồng, H đồng ý và gọi điện thoại đến máy di động hiệu Oppo màu đen có gắn sim số 097xxxx985 của Nguyễn Văn Khánh L nói L đến gặp H lấy ma túy đi giao cho người đàn ông (chồng của T ở thị trấn H). Khi L điều khiển xe mô tô biển số 60V4-XXXX đưa ma túy đi giao thì bị Công an thị trấn H bắt quả tang.

Đến khoảng 21 giờ 00 ngày 03/10/2019, có Vũ Văn L, sinh năm 1998, ngụ tại ấp K, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau và Nguyễn Chí T, sinh năm 2001, ngụ tại ấp 5, xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai gọi điện thoại cho H để xin ngủ nhờ lại. H nói L và T đến khu vực chợ đêm H gặp H. Sau đó, H, T, L và T vào thuê phòng số 5 của nhà nghỉ M2 thuộc khu phố p, thị trấn H để ngủ qua đêm. Đến 23 giờ cùng ngày, H lấy ra 01 ít ma túy để sử dụng cùng L và T. Đến 02 giờ ngày 04/10/2019, lực lượng Công an vào phòng số 5 kiểm tra phát hiện bắt quả tang và thu giữ 07 tép ma túy mà H cất giấu trong vỏ gói thuốc lá JET.

Do nghi ngờ trong dãy nhà trọ có người sử dụng ma túy nên vào khoảng 09 giờ 30 phút ngày 28/11/2019, Đội Cảnh sát Kinh tế - Ma túy Công an huyện N phối hợp cùng Công an xã L tiến hành kiểm tra hành chính tại cơ sở trọ của ông Trí thuộc ấp 2, xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai phát hiện bắt quả tang D đang tàng trữ trái phép 02 gói ma túy.

Quá trình điều tra, D khai nhận mua ma túy từ đối tượng tên Ngô Hoàng V (không rõ năm sinh, địa chỉ) về phân nhỏ bán lại.

Ngoài các lần trên, D còn thực hiện hành vi bán ma túy cho thêm 03 lần vào các ngày 24/7/2019, 29/9/2019 và 01/10/2019, cụ thể:

- Lần 1: Vào khoảng 15 giờ ngày 24/7/2019, Dương Văn L, sinh năm 1977 gọi điện thoại cho D hỏi mua 01 gói ma túy với giá 300.000 đồng, D đồng ý và hẹn L đến khu vực khu phố P, thị trấn H, huyện N để lấy ma túy. Sau đó, D nhờ Nguyễn Thị Bích T, sinh năm 1998 cầm 01 gói ma túy đi đến khu phố P, thị trấn H, huyện N để giao bán ma túy cho L thì bị bắt giữ.

- Lần 2: Vào khoảng 14 giờ ngày 29/9/2019, H gọi điện thoại cho D hỏi mua 01 tép ma túy với giá 700.000 đồng, D đồng ý và hẹn H tại ngã ba huyện N để giao ma túy. Đến 14 giờ 30 phút cùng ngày, D đến gặp H và giao ma túy.

- Lần 3: Vào khoảng 20 giờ ngày 01/10/2019, H tiếp tục gọi điện thoại cho D hỏi mua 01 tép ma túy với giá 600.000 đồng, D đồng ý và hẹn H tại ngã ba huyện N để giao ma túy. Sau đó, D gọi điện thoại cho T đến lấy ma túy để giao cho H, Sơn T đồng ý. Đến 20 giờ 30 phút cùng ngày, Sơn T đến gặp H giao ma túy và lấy 600.000 đồng đưa về cho D và được D trả tiền công 100.000 đồng.

Tại Kết luận giám định số: 1221/PC09 - GĐMT ngày 11/10/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai xác định: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định (thu của Nguyễn Văn Khánh L) là ma túy, có khối lượng 0,4178 gam, loại: Methamphetamine.

Tại Kết luận giám định số: 1222/PC09 - GĐMT ngày 11/10/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai xác định: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định (thu của Trần Văn H, Trương Thị Thùy T) là ma túy, có khối lượng 0,7582 gam, loại: Methamphetamine.

Tại Kết luận giám định số: 1550/PC09 - GĐMT ngày 03/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai xác định: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định (thu của D) là ma túy, có khối lượng 1,2968 gam, loại: Methamphetamine.

Vật chứng vụ án:

- 01 gói niêm phong số 1221/PC09 - GĐMT ngày 11/10/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai;

- 01 gói niêm phong số 1222/PC09 - GĐMT ngày 11/10/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai;

- 01 gói niêm phong số 1550/KLGĐ - PC09 ngày 13/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai;

- 01 cái nỏ thủy tinh;

- 02 cái kéo;

- 02 hộp quẹt;

- 01 chai nước;

- 01 cân tiểu ly màu đen;

- 10 gói nylon không chứa gì, kích thước 02 x 02cm;

- 01 bình nhựa có gắn nỏ thủy tinh và ống hút;

- 01 cái túi màu đen;

- 02 Sim Viettel, 02 Sim Mobilphone;

- 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu đen;

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen;

- 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu đỏ, đen;

- 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu tím đen;

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh;

- 01 xe mô tô, biển số 60V4 - xxxx;

- 01 xe mô tô, biển số 60C1 -XXX.71;

- Số tiền 500.000 đồng.

Vật chứng đã được xử lý theo bản án số 45/2020 của Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch

Trước Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N, bị cáo T khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ thu thập được tại hồ sơ vụ án.

Quá trình điều tra, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về Kết luận giám định số 1221/PC09 - GĐMT ngày 11/10/2019, số 1222/PC09 - GĐMT ngày 11/10/2019, số 1550/PC09 - GĐMT ngày 03/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

Bản cáo trạng số 189/CT.VKS-NT ngày 27 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch truy tố các bị cáo Trương Thị Thùy T về tội Mua, bán trái phép chất ma túy theo khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); đề nghị:

- Tuyên bố bị cáo T phạm tội Mua, bán trái phép chất ma túy theo khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự;

1/ Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; đề nghị xử phạt bị cáo T từ 07 đến 08 năm tù.

Về vật chứng vụ án:

Đã xử lý xong tại bản án số 45/2020/HS-ST của Tòa án nhân dân huyện N nên đề nghị không đặt ra xem xét lại.

Tại phiên tòa, bị cáo đã ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bị cáo và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo có điều kiện trở thành người tốt cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của các bị án khác, người làm chứng, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, kết luận của Cơ quan điều tra, Cáo trạng của Viện kiểm sát cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy:

Từ ngày 24/7/2019 đến ngày 03/10/2019, D, Trương Thị Thùy T, Sơn T, Trần Văn H và Nguyễn Văn Khánh L đã nhiều lần thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy tại các địa bàn thị trấn H và xã L, huyện N thì bị phát hiện bắt giữ. Cụ thể như sau:

Vào khoảng 19 giờ ngày 02/10/2019, Trần Văn H gọi điện D hỏi mua 01 gói ma túy với giá 1.000.000 đồng. Sau đó, D điện thoại Sơn T nói Sơn T đến gặp D để lấy ma túy đi giao cho H, Sơn T đồng ý và điều khiển xe mô tô biển số 60C1-xxx.71 đến ngã 3 N thuộc xã L, huyện L đưa ma túy cho H và lấy 1.000.000 đồng về gặp D đưa tiền bán ma túy cho D và được D trả tiền công 100.000 đồng.

Mua ma túy xong, Trần Văn H đem gói ma túy về phòng trọ tại ấp 2, xã L, huyện N phân thành 11 tép, H lấy 01 tép sử dụng, 10 tép ma túy còn lại H cất giấu vào trong vỏ gói thuốc lá JET và cất giữ trong người với mục đích bán cho các đối tượng nghiện kiếm lời.

Đến khoảng 11 giờ 00 phút ngày 03/10/2019, H đưa cho Trương Thị Thùy T đang ở trọ cùng với H cất giữ giùm ma túy, khi nào có người mua ma túy thì T đưa ma túy cho H để đi bán. Đến khoảng 17 giờ 30 phút, T đưa lại ma túy cho H cất giữ rồi cả hai ra quán cà phê gần nhà nghỉ 3 Sao thuộc xã L, huyện N để uống cà phê. Lúc này, có 3 người nghiện ma túy gọi điện thoại cho H để hỏi mua ma túy, gồm có: L (không rõ họ, tên, địa chỉ) mua 01 tép với giá 200.000 đồng, H đồng ý và gọi điện cho K (không rõ họ, tên, địa chỉ) đến gặp H lấy ma túy để đi giao bán cho L và mang tiền về cho H 170.000 đồng, còn số tiền 30.000 đồng K đã đỗ xăng; L (không rõ họ, tên, địa chỉ) mua 01 tép ma túy với giá 200.000 đồng, H đồng ý và nhờ B (không rõ họ, tên, địa chỉ) đi giao ma túy cho L; 01 người đàn ông chồng của T (không rõ họ, tên, địa chỉ) mua 01 tép ma túy với giá 200.000 đồng, H đồng ý và gọi điện thoại Nguyễn Văn Khánh L nói L đến gặp H lấy ma túy đi giao cho người đàn ông (chồng của T ở thị trấn H). Khi L điều khiển xe mô tô biển số 60V4-XXXX đi giao ma túy thì bị Công an thị trấn H bắt quả tang.

Đến 02 giờ ngày 04/10/2019, lực lượng Công an vào phòng số 5 nhà nghỉ M2 thuộc khu phố P, thị trấn H kiểm tra phát hiện bắt quả tang và thu giữ 07 tép ma túy mà Trần Văn H cất giấu trong vỏ gói thuốc lá JET. Ngoài ra tại phiên tòa Trương Thị Thùy T khai trong thời gian năm 2019, H 03 lần bỏ tiền mua ma túy, T và H cùng nhau mang bán cho các con nghiện để hưởng chênh lệch.

Sau khi bị bắt tạm giữ đến ngày 12 tháng 10 năm 2019, Trương Thị Thùy T được tại ngoại điều tra. Khi được tại ngoại điều tra T bỏ trốn bị truy nã, trong thời gian bỏ trốn ngày 18 tháng 6 năm 2020 T phạm tội mới mua bán trái phép chất ma túy, bị Công an bắt quả tang.

Đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trương Thị Thùy T phạm tội Mua, bán trái phép chất ma túy theo khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội nên Viện kiểm sát truy tố bị cáo T về tội Mua, bán trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có cơ sở, đúng pháp luật.

Vai trò của bị cáo:

- Bị cáo T đồng phạm với vai trò giúp sức nhiều lần cho Trần Văn H mua bán trái phép chất ma túy.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nuôi con nhỏ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo.

H và các đối tượng khác đã bị Tòa án đưa ra xét xử và kết án theo bảo án số 45/2020/HSST

Đối với đối tượng Ngô Hoàng V, L, K, L, B, hiện nay chưa xác minh được nhân thân, địa chỉ nên cơ quan điều tra tách ra tiếp tục làm rõ xử lý sau phù hợp quy định pháp luật.

[3] Về vật chứng vụ án:

Đã xử lý theo bản án hình sự số 45/2020/HSST của Tòa án nhân dân huyện N nên không đặt ra xem xét lại.

[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2013/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Về quyền kháng cáo, bị cáo được quyền kháng cáo theo thời hạn quy định tại Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch phù hợp nhận định trên nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 326, Điều 327 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tuyên bố các bị cáo Trương Thị Thùy T phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trương Thị Thùy T: 07(bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 04 tháng 10 năm 2019 đến ngày 12 tháng 10 năm 2019.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự, Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Trương Thị Thùy T nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

254
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 142/2020/HS-ST ngày 16/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:142/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhơn Trạch - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;