Bản án 142/2018/HNGĐ-ST ngày 06/11/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 142/2018/HNGĐ-ST NGÀY 06/11/2018 VỀ TRANH CHẤP  HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 06 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 255/2018/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 7 năm 2018 về việc “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình – Ly hôn”  theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 383/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 9 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 239/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T1, sinh năm 1983 (Có mặt) Địa chỉ: số 328, tổ 10, ấp TH, xã BT, huyện T, tỉnh An Giang.

2. Bị đơn: Anh Phan Văn T2, sinh năm 1978 (Vắng mặt) Địa chỉ: ấp TH, xã BT, huyện T, tỉnh An Giang. (Đã được tống đạt thủ tục tố tụng hợp lệ)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị Nguyễn Thị T1 trình bày:

Chị với anh Phan Văn T2 chung sống với nhau từ năm 1999, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã BT ngày 19/9/2005. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống rất hạnh phúc và có 02 con chung tên Phan Thị Cẩm L, sinh ngày 04/5/2000 và con tên Phan Vũ L1 sinh ngày 29/4/2005. Sau khi sinh Phan Vũ L1 một thời gian thì vợ chồng chị phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân tính tình không hợp nhau, vợ chồng thường hay cự cãi về chuyện tiền bạc, anh T2 thường hay đi nhậu, có lần nhậu về còn đánh chị. Vợ chồng chị đã ly thân khoảng 09 năm nay. Nhận thấy, cuộc sống hôn nhân không thể hàn gắn và kéo dài nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Phan Văn T2.

- Về con chung: Có 02 con chung tên Phan Thị Cẩm L, sinh ngày 04/5/2000 (đã trưởng thành) và con tên Phan Vũ L1 sinh ngày 29/4/2005. Chị T1 yêu cầu được nuôi cháu L1, không yêu cầu anh T2 cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Về phía bị đơn anh Phan Văn T2: Trong quá trình thụ lý vụ án và hòa giải, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật và triệu tập hợp lệ đương sự đến lần thứ hai nhưng anh T2 không gửi văn bản ghi ý kiến của bản thân, cũng không đến tham gia phiên hòa giải nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của anh T2.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về tố tụng: Đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình về ly hôn, bị đơn anh Phan Văn T2 có địa chỉ tại ấp TH, xã BT, huyện T, tỉnh An Giang nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Bị đơn anh Phan Văn T2 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Phan Văn T2. [2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T1 với anh Phan Văn T2 chung sống với nhau từ năm 1999, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã BT, huyện T ngày 19/9/2005. Vì vậy, đây là hôn nhân hợp pháp phù hợp với quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Xét yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị T1, Hội đồng xét xử xét thấy: Chị T1 và anh T2 chung sống với nhau hạnh phúc thời gian đầu. Nhưng sau khi sinh con thứ 2 là Phan Vũ L1 một thời gian thì vợ chồng chị phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân tính tình không hợp nhau, vợ chồng thường hay cự cãi về chuyện tiền bạc, anh T2 thường hay đi nhậu, có lần nhậu về còn đánh chị. Vì thương hai con còn nhỏ nên chị cố gắng chịu đựng nhưng anh T2 vẫn không thay đổi nên chị và anh T2 đã ly thân khoảng 09 năm nay. Mặc dù biết chị nộp đơn khởi kiện xin ly hôn nhưng anh T2 cũng không đến liên hệ, không có ý định thể hiện mong muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng với chị T1 để xây dựng gia đình và nuôi dạy con chung. Về phía anh T2, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng cho anh T2, tạo điều kiện cho anh T2 hàn gắn tình cảm với chị T1 nhưng anh T2 không đến tham dự các phiên hòa giải, xét xử và cũng không có văn bản nào nêu ý kiến phản đối về yêu cầu khởi kiện của chị T1. Hội đồng xét xử xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị T1 và anh Phan Văn T2 đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó có đủ căn cứ để áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị T1.

 [2.2] Về quan hệ con chung: Chị Nguyễn Thị T1 và anh Phan Văn T2 có 02 con chung tên Phan Thị Cẩm L, sinh ngày 04/5/2000 (đã trưởng thành) và con tên Phan Vũ L1 sinh ngày 29/4/2005 (hiện cháu L1 đang sống với chị T1). Xét yêu cầu xin nuôi con của chị T1, Hội đồng xét xử nhận thấy: hiện tại cháu Phan Vũ L1 đang được chị T1 chăm sóc, nuôi dưỡng. Đồng thời, tại biên bản lấy lời khai ngày 20/8/2018, cháu L1 cũng thể hiện nguyện vọng được sống cùng với chị T1 sau khi cha mẹ cháu ly hôn. Cho nên, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bình thường về thể chất, tinh thần và ổn định cuộc sống của cháu L1 Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận yêu cầu của chị T1, giao cháu Phan Vũ L1 cho chị T1 tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục nhưng chị T1 phải tạo điều kiện cho anh T2 đến thăm nom con chung, không ai được ngăn cản.

Tại phiên tòa hôm nay, chị T1 không yêu cầu anh T2 phải cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Tuy nhiên, khi có điều kiện và tình hình thời gian thay đổi thì các bên có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con chung.

 [2.3] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

 [3] Về án phí: Do chị Nguyễn Thị T1 yêu cầu giải quyết ly hôn nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều39, khoản 4 Điều 147, điểm b  khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271, Điều273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 9, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Nguyễn Thị T1.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T1 được ly hôn với anh Phan VănT2.

2. Về quan hệ con chung:

Giao cháu Phan Vũ L1 sinh ngày 29/4/2005 (hiện cháu L1 đang sống với chị T1) cho chị Nguyễn Thị T1 trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng.

Anh Phan Văn T2 không phải cấp dưỡng nuôi con chung nhưng được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được ngăn cản.

Chị Nguyễn Thị T1 phải tạo điều kiện cho anh Phan Văn T2 được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung. Vì lợi ích của con, khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về quan hệ tài sản:

- Về tài sản chung: Không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về nợ chung: Ghi nhận chị Nguyễn Thị T1 và anh Phan Văn T2 không có nợ chung, nhưng sau khi bản án này có hiệu lực pháp luật, nếu có nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của anh, chị trong thời kỳ sống chung thì chị Nguyễn Thị T1 và anh Phan Văn T2 vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách là đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T1 phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001287 ngày 11 tháng 7 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh An Giang.

5. Chị Nguyễn Thị T1 có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Anh Phan Văn T2 có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án tại Trụ sở Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 142/2018/HNGĐ-ST ngày 06/11/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:142/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tịnh Biên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;