Bản án 14/2024/HS-ST tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 14/2024/HS-ST NGÀY 18/01/2024 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Trong ngày 18 tháng 01 năm 2024, tại Phòng xét xử hình sự thuộc Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 335/2023/TLST - HS ngày 19/12/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 335/2023/QĐXXST – HS ngày 21/12/2023 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Thanh T, sinh ngày 04/6/2002, tại Thành phố Hồ Chí Minh; giới tính: Nam; hộ khẩu thường trú: 7/32 tổ M, ấp N, xã T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Như trên; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 11/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Họ và tên cha: Nguyễn Thanh B; họ và tên mẹ: Võ Thị Kim H; hoàn cảnh gia đình: Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo ra đầu thú, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/6/2023 (có mặt).

2. Họ và tên: Nguyễn Phi H, sinh ngày 07/6/2002, tại Thành phố Hồ Chí Minh; giới tính: Nam; hộ khẩu thường trú: 13/31 tổ M, ấp N, xã T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Như trên; nghề nghiệp: Công nhân;trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Họ và tên cha: NguyễnH P; họ và tên mẹ: Nguyễn Thị Thanh N; hoàn cảnh gia đình: Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo ra đầu thú, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/6/2023 (có mặt).

Người bào chữa: Ông Phạm Văn Việt H, luật sư của Công ty Luật hợp Danh và Cộng sự, thuộc đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh là người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Phi H (có mặt).

Bị hại:

1/ Ông Nguyễn Duy K, sinh năm: 2001 (vắng mặt) Nơi cư trú: 9/21 Nguyễn Du, Phường 7, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

2/ Ông Nguyễn Song Thiên B, sinh năm: 2002 (vắng mặt).

Nơi cư trú: 66 đường X, phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/ Bà Diệp Hoàng A, sinh năm: 2000 (vắng mặt).

Nơi cư trú: 302 đường N, Phường H, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh.

2/ Ông Đỗ Văn D, sinh năm 1992 (vắng mặt).

Nơi cư trú: A5/20A đường E, xã B, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Bà Võ Thị Kim H, sinh năm 1972 (có mặt).

Nơi cư trú: 7/32 tổ N, ấp M, xã T, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh.

4. Bà Nguyễn Thị Thanh N, sinh năm 1976 (có mặt).

Nơi cư trú: 13/31 tổ M, ấp T, xã E, huyện Q, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thanh T và Nguyễn Phi H có mối quan hệ là bạn bè. Cả hai không có nghề nghiệp ổn định nên rủ nhau chiếm đoạt tài sản của người khác để bán lấy tiền chia nhau tiêu xài. T thống nhất sẽ đăng ký tài khoản Facebook và liên hệ tìm người có nhu cầu trao đổi phụ tùng xe mô tô nhãn hiệu Honda Vario, sau đó T hẹn gặp bị hại tại những khu vực vắng vẻ, giả vờ tạo tình huống rồi lợi dụng sơ hở của bị hại để chiếm đoạt xe; cònH làm nhiệm vụ điều khiển xe mô tô chở T đến điểm hẹn và hỗ trợ T khi chiếm đoạt được xe. Với thủ đoạn như trên, T vàH đã thực hiện trót lọt 02 vụ “Cướp giật tài sản”, cụ thể như sau:

Vụ 1: Vào ngày 17/01/2023, Nguyễn Thanh T sử dụng tài khoản mạng xã hội Facebook tên “Huy Văn” nhắn tin cho ông Nguyễn Duy K với nội dung trao đổi dàn áo xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Vario. Đến ngày 30/01/2023, T hẹn ông K mang xe đến địa bàn xã An Phú Tây, huyện Bình Chánh gặp T để trao đổi phụ tùng xe máy, ông K đồng ý. Lúc này, T chuẩn bị sẵn 01 vỏ hộp bánh trung thu rồi gọi điện thoại kêuH chở T đến điểm hẹn gặp ông K. Sau đó, H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Future biển số 59N3- X đến chở T đến đầu đường Tân Nhiễu giáp với đường An Phú Tây - Hưng Long thuộc ấp 2, xã An Phú Tây, huyện Bình Chánh.

Tại đây, T ở lại chờ ông K đến, còn H đi tránh mặt.

Một lúc sau, ông K điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Vario, màu xanh dương biển số 59S3-X đến gặp T. Lúc này, T nói là xe của T để tại tiệm sửa xe và kêu ông K đưa xe cho T chở ông K đến tiệm sửa xe cho nhanh vì T quen đường đi. Ông K đồng ý giao xe cho T điều khiển, khi đến đoạn đường T11 thuộc tổ 17, ấp 1, xã Tân Quý Tây, huyện Bình Chánh thì T cố tình dùng chân phải đá hộp bánh rớt xuống đường rồi dừng xe lại, T kêu ông K xuống xe nhặt giúp hộp bánh. Lợi dụng trong lúc ông K vừa bước xuống xe quay lưng đi thì T nhanh chóng tăng ga điều khiển xe của ông K tẩu thoát.

Chạy được một đoạn, T gọi điện thông báo choH biết là đã chiếm đoạt được xe. Sau đó, cả hai gặp nhau tại nhà của T thì T nói là để T thay ổ khóa xe rồi đăng tin trên mạng xã hội rao bán xe, khi nào bán được thì sẽ chia tiền choH. Khoảng 03 ngày sau, có người hỏi mua xe với giá 6.000.000 đồng nên T hỏi ý kiến củaH xem có đồng ý bán hay không thìH đồng ý. T mang xe mô tô biển số 59S3-X bán cho một người đàn ông (không rõ lai lịch) với số tiền là 6.000.000 đồng, chia choH 1.000.000 đồng, số tiền còn lại T tiêu xài cá nhân hết.

Kết luận định giá tài sản số 2400/KL-HĐĐGTS ngày 07/8/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự huyện Bình Chánh xác định: Giá trị còn lại của xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Vario biển số 59S3-X tại thời điểm ngày 30/01/2023 là 35.175.000 đồng.

Vụ 2: Với cách thức và thủ đoạn như vụ trước, vào ngày 15/6/2023, T dùng tài khoản Facebook tên “Minh Đức” nhắn tin với tài khoản Facebook của ông Nguyễn Song Thiên B và hẹn gặp ông B vào ngày 19/6/2023 để trao đổi phụ tùng xe máy nhãn hiệu Honda, loại Vario. Đến ngày 19/6/2023, T gọi điện thoại thông báo choH biết sẽ chiếm đoạt xe của ông B. Một lúc sau,H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Future biển số 59N3-X chở T mang theo 01 thùng giấy carton bên trong có chứa phụ tùng xe máy (01 bố ba càng) đến điểm hẹn tại kế địa chỉ 436/7 thuộc ấp 2, xã An Phú Tây, huyện Bình Chánh. Tại đây, T ở lại chờ ông B đến, cònH tránh mặt.

Một lúc sau thì ông B điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Vario biển số 59K2-X đến, bên trong cốp xe ông B có để 01 phuộc xe “Zin”. Lúc này, T kêu ông B giao xe mô tô cho T chở ông B đi lấy phụ tùng xe; ông B đồng ý giao xe cho T điều khiển chở anh Bảo đến đoạn đường T5 thuộc ấp 4, xã Hưng Long, huyện Bình Chánh thì T cố tình làm rơi thùng giấy carton đựng phụ tùng xe máy xuống đường rồi dừng xe lại, T kêu ông B nhặt giúp thùng giấy. Lợi dụng trong lúc ông B vừa xuống xe quay lưng đi thì T tăng ga điều khiển xe của anh Bảo nhanh chóng tẩu thoát.

Sau đó, T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Vario biển số 59K2-X vừa chiếm đoạt được đến gặpH và giao choH điều khiển xe đến địa chỉ số 249, Khu 3, ấp Chợ, xã Phước Lợi, huyện Bến Lức, tỉnh Long An để gửi xe rồi lấy thẻ giữ xe đưa cho T. Đến ngày 20/6/2023, T tự đón xe ôm đến nơi gửi xe và lấy xe mô tô biển số 59K2-X về nhà địa chỉ số 7/32, tổ 7, ấp 4, xã Tân Quý Tây, huyện Bình Chánh. Tại đây, T cùng vớiH sơn lại dàn áo xe thành màu đỏ, tháo biển số xe 59K2- X ra cất, sau đó T tháo phuộc xe hiệu YSS ra và thay bằng phuộc “Zin” có sẵn trong cốp xe nhằm mục đích chờ bán xe lấy tiền chia nhau tiêu xài.

Đến ngày 24/6/2023, do lo sợ bị phát hiện nên Nguyễn Phi H, Nguyễn Thanh T đến Công an huyện Bình Chánh đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi chiếm đoạt xe của ông K và ông B theo nội dung như trên. Lời khai của T vàH phù hợp với nhau, phù hợp với Biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, Biên bản khám nghiệm hiện trường, lời khai của các bị hại và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Kết luận định giá tài sản số 2749/KL-HĐĐGTS ngày 19/9/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự huyện Bình Chánh xác định: Giá trị còn lại của xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Vario biển số 59K2-X tại thời điểm ngày 19/6/2023 là 34.650.000 đồng.

Kết luận định giá tài sản số 3351/KL-HĐĐGTS ngày 14/11/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự huyện Bình Chánh xác định: Giá trị còn lại của 01 phuộc xe hiệu YSS G-SERIES tại thời điểm ngày 19/6/2023 là 1.500.000 đồng.

Tổng trị giá tài sản do Nguyễn Thanh T và Nguyễn Phi H chiếm đoạt của các bị hại K và Bảo là 71.325.000 đồng.

Vật chứng thu giữ của vụ án:

Nguyễn Thanh T giao nộp: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Vario, màu đỏ - đen không có gắn biển số, số máy: JM51E1714819, số khung: MH1JM5110LK715120; 01 biển số xe 59K2-X; 01 phuộc xe hiệu YSS G- SERIES, có mã số Y92202554. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã giao trả lại cho bị hại Nguyễn Song Thiên B.

Nguyễn Phi H giao nộp: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Future biển số 59N3-X doH đứng tên chủ sở hữu; 01 cái áo khoác thun màu xanh trắng, 01 cái nón bảo hiểm màu xanh; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A5S và 01 cái bố ba càng hình trụ tròn bằng kim loại có đường kính 12 cm, dày 3cm là phụ tùng xe máy do Nguyễn Thanh T sử dụng nhằm tạo tình huống để chiếm đoạt xe của bị hại Bảo.

Tại bản Cáo trạng số 15/CT – VKS - BC ngày 15 tháng 12 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Nguyễn Thanh T, Nguyễn Phi H về tội "Cướp giật tài sản” theo điểm c Khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Thanh T, Nguyễn Phi H đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình giống như lời khai tại Cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đồng thời thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh truy tố các bị cáo. Các bị cáo không tranh luận, lời nói sau cùng các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố sau khi nêu tóm tắt nội dung vụ án, phân tích tính chất của vụ án những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T từ 04 năm đến 05 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm c Khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Phi H từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm c Khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và xử lý vật chứng theo quy định.

Luật sư bào chữa bị cáoH thống nhất với tội danh và điều luật truy tố bị cáoH, luật sư nêu các tình tiết sau để Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo với những lý do sau: Bị cáo bỏ học sớm, hoàn cảnh gia đình khó khăn, thiếu sự quan tâm chăm sóc giáo dục của gia đình; nhân thân bị cáo tốt chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu, tài sản cũng đã kịp thời thu hồi giao trả cho bị hại, gia đình bị cáo đã khắc phục hậu quả bồi thường cho bị hại và được bị hại làm đơn bãi nại, bị cáo ra đầu thú. Từ nhận định trên luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo thấp hơn mức án mà Viện kiểm sát đề nghị để bị cáo sớm có cơ hội làm lại cuộc đời.

Bị hại Nguyễn Song Thiên B vắng mặt tại tòa dù đã được triệu tập hợp lệ, các chứng cứ, tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án thể hiện bị hại đã nhận lại tài sản chiếm đoạt và không yêu cầu gì về dân sự.

Bị hại Nguyễn Duy K vắng mặt tại tòa dù đã được triệu tập hợp lệ, các chứng cứ, tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án thể hiện bị hại đã được bà Nguyễn Thị Thanh N là mẹ ruột của bị cáoH; bà Võ Thị Kim H là mẹ ruột của bị cáo T bồi thường xong về dân sự và đã có đơn bãi nại cho bị cáo, không yêu cầu gì thêm về dân sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Chánh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, các bị cáo trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo Nguyễn Thanh T, Nguyễn Phi H tại tòa là phù hợp với nhau; phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra (BL: 164 – 142, 149 – 154, 157 - 160); phù hợp với lời khai của các bị hại ông Nguyễn Duy K, ông Nguyễn Song Thiên B phù hợp với các chứng cứ, tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án. Vụ án còn được chứng minh qua hoạt động điều tra như Biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú; Biên bản lấy lời khai, Biên bản thực nghiệm điều tra; thu giữ vật chứng, kết quả định giá tài sản, cùng các chứng cứ tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên nảy sinh ý định tìm cách tiếp cận với những người có tài sản để chiếm đoạt tài sản của họ. Bị cáo T thống nhất sẽ đăng ký tài khoản Facebook và liên hệ tìm người có nhu cầu trao đổi phụ tùng xe mô tô nhãn hiệu Honda Vario, sau đó bị cáo T hẹn gặp bị hại tại những khu vực vắng vẻ, giả vờ tạo tình huống tiếp cận tài sản rồi lợi dụng sơ hở của bị hại để chiếm đoạt xe. Đối với bị cáoH làm nhiệm vụ điều khiển xe mô tô chở bị cáo T đến điểm hẹn và hỗ trợ cho bị cáo T khi chiếm đoạt được xe. Với cách thức và thủ đoạn như trên, cả hai bị cáo đã đã thực hiện trót lọt 02 vụ “Cướp giật tài sản”, cụ thể như sau:

Vụ 1: Vào ngày 17/01/2023, bị cáo T sử dụng tài khoản mạng xã hội Facebook tên “Huy Văn” nhắn tin cho ông Nguyễn Duy K với nội dung trao đổi dàn áo xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Vario. Ngày 30/01/2023, bị cáo T hẹn ông K mang xe đến địa bàn xã An Phú Tây, huyện Bình Chánh gặp bị cáo T để trao đổi phụ tùng xe máy, ông K đồng ý. Trước khi gặp bị hại K, bị cáo T đã chuẩn bị sẵn 01 vỏ hộp bánh trung thu rồi gọi điện thoại kêu bị cáoH chở mình đến điểm hẹn gặp bị hại K. Bị cáoH điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Future biển số 59N3- X đến chở bị cáo T đến đầu đường Tân Nhiễu giáp với đường An Phú Tây - Hưng Long thuộc ấp 2, xã An Phú Tây, huyện Bình Chánh. Tại đây, bị cáo T ở lại chờ ông K đến, còn bị cáoH đi tránh mặt. Sau đó, bị hại K điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Vario, màu xanh dương biển số 59S3-X đến gặp bị cáo T. Lúc này, bị cáo T giả vờ nói là xe của bị cáo để tại tiệm sửa xe và kêu bị hại K đưa xe cho bị cáo T chở bị hại đến tiệm sửa xe cho nhanh vì bị cáo quen đường đi. Bị hại tưởng thật nên đồng ý giao xe cho bị cáo T điều khiển. Khi đến đoạn đường T11 thuộc tổ 17, ấp 1, xã Tân Quý Tây, huyện Bình Chánh thì bị cáo T cố tình dùng chân phải đá hộp bánh rớt xuống đường rồi dừng xe lại giả vờ kêu bị hại xuống xe nhặt giúp hộp bánh. Lợi dụng trong lúc bị hại vừa bước xuống xe quay lưng đi thì bị cáo T tăng ga điều khiển xe của bị hại K nhanh chóng tẩu thoát.

Giá trị còn lại của xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Vario biển số 59S3-X tại thời điểm ngày 30/01/2023 là 35.175.000 đồng (Căn cứ vào Kết luận định giá tài sản số 2400/KL-HĐĐGTS ngày 07/8/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự huyện Bình Chánh).

Vụ thứ 2: Với hành vi, cách thức và thủ đoạn như trên vào 15/6/2023, các bị cáo đã chiếm đoạt của ông Nguyễn Song Thiên B 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Vario biển số 59K2-X (bên trong cốp xe có 01 phuộc xe hiệu YSS G-SERIES) tại đoạn đường T5 thuộc ấp 4, xã Hưng Long, huyện Bình Chánh. Giá trị còn lại của xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Vario biển số 59K2-X tại thời điểm ngày 19/6/2023 là 34.650.000 đồng. Giá trị còn lại của 01 phuộc xe hiệu YSS G-SERIES tại thời điểm ngày 19/6/2023 là 1.500.000 đồng. (Căn cứ vào Kết luận định giá tài sản số 2749/KL-HĐĐGTS ngày 19/9/2023 và Kết luận định giá tài sản số 3351/KL- HĐĐGTS ngày 14/11/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự huyện Bình Chánh xác định).

Với những tình tiết được chứng minh trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Nguyễn Thanh T, Nguyễn Phi H đã phạm tội “Cướp giật tài sản”, tội phạm được quy định tại Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); nên Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố các bị cáo với tội danh nêu trên là đúng người, đúng tội.

[3] Tội phạm các bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã hội tại địa phương. Các bị cáo phạm tội với lỗi cố ý, mục đích phạm tội là muốn có tiền tiêu xài cho bản thân mà không chịu bỏ công sức ra lao động chân chính. Khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai trái, là vi phạm pháp luật nhưng bản tính tham lam, biếng lười lao động, muốn có tiền tiêu xài cho bản thân nên đã cố ý phạm tội. Do đó, khi lượng hình cần buộc các bị cáo phải tiếp tục chấp hành hình phạt tù có thời hạn một thời gian thì mới có tác dụng giáo dục, răn đe, phòng ngừa chung.

[4] Đây là vụ án có đồng phạm nhưng mang tính chất giản đơn, không có sự cấu kết chặt chẽ, trong đó bị cáo T giữ vai trò chính, tìm cách trao đổi, tiếp cận sau đó chiếm đoạt tài sản của bị hại; bị cáoH giữ vai trò giúp sức dùng xe của mình chở bị cáo T đến địa điểm phạm tội. Do đó, khi lượng hình mức án đối với bị cáo T sẽ cao hơn bị cáoH là phù hợp với vai trò, tính chất, mức độ phạm tội của từng bị cáo.

[5] Tổng giá trị tài sản các bị cáo chiếm đoạt trên 50 triệu đồng (71.325.000 đồng) là thuộc trường hợp định khung hình phạt, Hội đồng xét xử áp dụng điểm c Khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xét xử các bị cáo và có mức án nghiêm khắc.

[6] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngoài số tiền các bị cáo chiếm đoạt là tình tiết định khung hình phạt thì các bị cáo còn thực hiện 02 lần cướp giật tài sản, nên hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hai lần trở lên, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử áp dụng điểm g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xét xử bị cáo.

[7] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, các bị cáo phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự; các bị cáo ra đầu thú; tài sản kịp thời thu hồi giao trả cho bị hại Bảo; gia đình các bị cáo đã khắc phục hậu quả bồi thường cho bị hại K và được bị hại K làm đơn bãi nại cho các bị cáo, Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt.

[8] Bài bào chữa của luật sư bào chữa cho bị cáoH là có căn cứ phù hợp các chứng cứ, tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử chấp nhận một phần.

[9] Xử lý vật chứng của vụ án:

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Vario, màu đỏ - đen không có gắn biển số, số máy: JM51E1714819, số khung: MH1JM5110LK715120; 01 biển số xe 59K2-X; 01 phuộc xe hiệu YSS G-SERIES, có mã số Y92202554. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã giao trả lại cho bị hại Nguyễn Song Thiên B, Hội đồng xét xử ghi nhận.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Future biển số 59N3-X, qua xác minh do bị cáoH đứng tên chủ sở hữu; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPOA5S thuộc quyền sở hữu của bị cáoH và 01 cái bố ba càng hình trụ tròn bằng kim loại có đường kính 12 cm, dày 3cm là phụ tùng xe máy thu của bị cáo T, đây là các tài sản của các bị cáo nhưng dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội nên Hội đồng xét xử không xét trả lại cho các bị cáo mà sẽ tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước theo điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với 01 cái áo khoác thun màu xanh trắng, 01 cái nón bảo hiểm màu xanh, các đồ vật này là đồ dùng cá nhân của các bị cáo nhưng các bị cáo không nhận lại và xét không còn giá trị sẽ tịch thu tiêu hủy theo quy định điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, [10] Về dân sự: Đối với bị hại Nguyễn Song Thiên B đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, không yêu cầu gì về dân sự. Đối với bị hại Nguyễn Duy K đã được gia đình các bị cáo bồi thường và làm đơn bãi nại, không yêu cầu gì về dân sự, Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[11] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại tại Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c Khoản 2 Điều 171; điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 17; điểm g Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Nguyễn Thanh T.

Căn cứ vào điểm c Khoản 2 Điều 171; điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 17; điểm g Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Nguyễn Phi H.

Căn cứ vào điểm a Khoản 2 Điều 106; Điều 331, Điều 332, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ vào Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T từ 04 (bốn) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”.

Thời hạn tù tính từ ngày 24/6/2023.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Phi H từ 03 (ba) năm 08 (tám) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 24/6/2023.

Về vật chứng:

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Future biển số 59N3-X, số máy: JC90E0298573, số khung: RLHJC7658NY137638); 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A5S và 01 cái bố ba càng hình trụ tròn bằng kim loại có đường kính 12 cm, dày 3cm là phụ tùng xe máy.

Tịch thu tiêu hủy 01 cái áo khoác thun màu xanh trắng, 01 cái nón bảo hiểm màu xanh.

(các vật chứng trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Bình Chánh theo Biên bản giao nhận tang tài vật được lập vào ngày 15/12/2023 giữa Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Bình Chánh và Công an huyện Bình Chánh).

Về án phí: Buộc mỗi bị cáo chịu 200.000 đồng (hai trăm ngìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn là 15 (mười lăm) ngày tính kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt tại tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, tính từ ngày nhận bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 14/2024/HS-ST tội cướp giật tài sản

Số hiệu:14/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;